Thứ Hai, 27 tháng 7, 2015

CHÂN DUNG NHÀ VĂN

Xuân Sách

NXB Văn Học
 3-1991

Tiếp theo cuốn Thương nhớ tài hoa của Nguyễn Vũ Tiềm, phác thảo chân dung của năm mươi nhà thơ, nhà văn đã quá cố, những cây bút có những đóng góp đặc sắc cho nền văn học của đất nước, hôm nay Nhà xuất bản Văn học gửi tới bạn đọc một tập hợp khác về chân dung các nhà văn.

       Đây là những kí hoạ có tính đặc tả của Xuân Sách, những chân dung vốn đã khá phổ biến trong và ngoài giới văn học suốt vài chục năm qua.

     Tác giả không nêu đích danh ai, nhưng dưới nét bút phác thảo, những độc giả quan tâm tới văn học và người làm văn học, vẫn có thể nhận ra từng đối tượng. Dĩ nhiên thể loại này thường cố ý phóng to các đặc điểm và khi nhìn vào nét đặc tả ấy – tuy mất cân đối và đôi khi phiến diện – vẫn dễ dàng nhận ra diện mạo, cốt cách từng nhân vật.

    Chất vui, hóm và nhất là khả năng chơi chữ có thể khiến người ta ngạc nhiên một cách thú vị, nhưng cũng có thể gây nên những sự không hài lòng đây đó…

    Chúng tôi chỉ coi đây là những nét tự trào của giới cầm bút, cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa, hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên những chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình hoặc hiểu mình thêm qua cái nhìn của người cùng hội, cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí, ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước.

     Với ý nghĩ ấy, chúng tôi mong bạn đọc và các nhà văn thông cảm cho những gì bất cập hoặc chưa lột tả được thần thái của từng chân dung.

Dù sao đây cũng là 100 bức tranh nhỏ về những người có công trong văn học, những người nổi tiếng trong làng văn, trong bạn đọc bằng chính những tác phẩm có giá trị của mình.

      Rất mong bạn đọc và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết.

Nhà xuất bản Văn học

        1. Hồ Phương  ( bản của NXB Văn học không có tên 100 nhà văn trong thơ. Tô Oanh đã thêm vào )
 Trên biển lớn mênh mông sóng nước
 Ngó trông về xóm mới khuất xa
 Cỏ non nay chắc đã già
 Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem.
2. Nguyễn Đình Thi

Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
 Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
 Bay chi mặt trận trên cao ấy
 Quên chú nai đen vẫn đứng chờ.
3. Tô Hoài
Dế mèn lưu lạc mười năm
 Để O Chuột phải ôm cầm thuyền ai
 Miền tây sen đã tàn phai
 Trăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang.
4. Nguyên Hồng
Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
 Sóng gầm sông Lấp mấy ai hay
 Cơn bão đến động rừng Yên thế
 Con hổ già uống rượu giả vờ say
5. Nguyễn Công Hoan
Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
 Bởi còn tranh tối bác nhầm thôi
 Bới tung đống rác nên trời phạt
 Trời phạt chửa xong bác đã cười.
6. Nguyễn Tuân
 Vang bóng một thời đâu dễ quên
 Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
 Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
 Tờ hoa lại trót lỡ ưu phiền.
7. Huy Cận
Các vị La hán chùa Tây phương
 Các vị gày quá tôi thì béo
 Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
 Bây giờ tôi hát đất nở hoa
 Tôi hát chiến tranh như trẩy hội
 Không nên xấu hổ khi nói dối
 Việc gì mặt ủ với mày chau
 Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu!
8. Xuân Diệu
 Hai đợt sóng dâng một khối hồng
 Không làm trôi được chút phấn thông
 Chao ơi ngói mới nhà không mới
 Riêng còn chẳng có, có gì chung.
9. Tế Hanh
Quá tuổi hoa niên đã bạc đầu
 Tình còn dang dở tận Hàng Châu
 Khúc ca mới hát sao buồn thế
 Hai nửa yêu thương một nửa sầu.
10. Chế Lan Viên
Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn
 Ta nghĩ tới vàng son từ thuở ấy
 Chim báo bão, lựa chiều cơn gió dậy
 Lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi
 sắc phù sa
 Thay đổi cả cơn mơ,
 ai dám bảo con tầu không mộng tưởng
 Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
 Lòng ta cũng như tầu, ta cũng uống
 Mặt anh em trong suối cạn
 Hội nhà văn
11. Nguyễn Thi
Trăng sáng soi riêng một mặt người
 Chia ly đôi bến cách phương trời
 Ước mơ của đất anh về đất
 Im lặng mà không cứu nổi đời.
       12. Kim Lân
Nên danh nên gía ở làng
 Chết về ông lão bên hàng xóm kia
 Làm thân con chó xá gì
 Phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn.
13. Tú Mỡ
Một nắm xương khô cũng gọi mỡ
 Quanh năm múa bút để mua cười
 Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược
 Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi.
14. Bùi Huy Phồn (Đồ Phồn)
 Phất rồi ông mới ăn khao
 Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời
 Ông đồ phấn, ông đồ vôi
 Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng.
15. Hoài Thanh
Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
 Nửa đời sau lại vị người ngồi trên
 Thi nhân còn một chút duyên
 Lại vò cho nát lại lèn cho đau
 Bình thơ tới thuở bạc đầu
 Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
 Giật mình mình lại thương mình
 Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan
16. Vũ Tú Nam
 Vốn cùng nhân dân tiến lên
 Mùa đông năm ấy bỏ quên cờ đào
 Con về nấp bóng ca dao
 Giật mình nghe một tiếng chào:
 Văn Ngan?
17. Hữu Mai
Hỏng đôi mắt phải đâu là mất hết
 Trong cặp còn hồ sơ điệp viên
 Ông cố vấn chẳng sợ gì cái chết
 Cao điểm cuối cùng quyết chí xông lên.
18. Đỗ Chu
Đám cháy ở sau lưng
 Đám cháy ở trước mặt
 Than ôi mày chạy đâu
 Dưới vòm trời quen thuộc
 Đốt bao nhiêu cỏ mật
 Không bay mùi thơm tho
 Càng hun càng đỏ mắt
 Quay về thung lũng cò
19. Xuân Quỳnh
Mải hái hoa dọc chiến hào
 Bỏ quên chòi biếc lúc nào không hay
 Thói quen cũng lạ lùng thay
 Trồng cây táo lại mọc cây bạch đàn
20. Phạm Tiến Duật
Trường sơn đông em đi hái măng
 Trường sơn tây anh làm thơ cho lính
 Đời có lúc bay lên vầng trăng
 Lại rơi xuống chiếc xe không kính
 Thế đấy! giữa chiến trường
 Nghe tiếng bom cũng mạnh!
21. Nguyễn Thành Long
 Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra
 Trò chơi nguy hiểm đấy thôi mà
 Lặng lẽ giữa khoảng trong xanh ấy
 Để mối đùn lên đến lúc già.
22. Đào Vũ
Trời thí cho ông vụ lúa chiêm
 Ông xây sân gạch với xây thềm
 Con đường mòn ấy ông đi mãi
 Lưu lạc đâu rồi mất cả tên
23. Nguyễn Bính
Hai lần lỡ bước sang ngang
 Thương con bướm đậu trên giàn mồng tơi
 Trăm hoa thân rã cành rời
 Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ.
24. Nguyễn Văn Bổng
Nhọc nhằn theo bước con trâu
 Hỡi người áo trắng nông sâu đã từng
 Mỗi bước đi một bước dừng
 Mà sao vẫn lạc giữa rừng U minh.
25. Nguyên Ngọc
 Mấy lần đất nước đứng lên
 Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
 Hại thay một mạch nước ngầm
 Cuốn trôi đất Quảng lẫn rừng Xà nu
26. Vũ Thị Thường
Từ trong hom giỏ chui ra
 Đã toan gánh vác sơn hà chị ơi
 Định đem cái lạt buộc người
 Khổ thay ông lão vịt trời phải chăn
27. Quang Dũng
“Sông Mã xa rồi tây tiến ơi”
 Về làm xiếc khỉ với đời thôi
 Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm
 Sống tạm cho qua một kiếp người
 Áo sờn thay chiếu anh về đất
 Mây đầu ô trắng, Ba vì xanh
 Gửi hồn theo mộng về tây tiến
 “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
28. Mai Ngữ
 Tưởng chuyện như đùa hoá ra thật
 Biết ông sòng phẳng tự bao giờ
 Cái con thò lò quay sáu mặt
 Vồ hụt mấy lần ông vẫn trơ
    29. Nguyễn Khải
Cha và con và… họ hàng và…
 Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc
 Cho nên chiến sĩ thiếu lương ăn
 Họ sống chiến đấu càng khó khăn
 Tháng Ba ở Tây nguyên đỏ lửa
 Tháng tư lại đi xa hơn nữa
 Đường đi ra đảo đường trong mây
 Những người trở về mấy ai hay
 Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt
 Muốn làm cách mạng nhưng lại dát1
30. Hoàng Trung Thông
 Đường chúng ta đi trong gió lửa
 Còn mơ chi tới những cánh buồm
 Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất
 Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm
31. Chính Hữu
Tấm áo hào hoa bạc gió mưa
 Anh thành đồng chí tự bao giờ
 Trăng còn một mảnh treo đầu súng
 Cái ghế quan trường giết chết thơ.
32. Thanh Tịnh
 Bao năm ngậm ngải tìm trầm
 Giã từ quê mẹ xa dòng Hương giang
 Bạc đầu mới biết lạc đường
 Tay không nay lại vẫn hoàn tay không
 Mộng làm giọt nước ôm sông
 Ôm sông chẳng được, tơ lòng gió bay.
33. Chu Văn
 Một con trâu bạc già nua
 Nhờ cơn bão biển thổi lùa lên mây
 Trâu ơi ta bảo trâu này
 Quay về đất mới kéo cày cho xong.
34. Ngô Tất Tố
Tài ba thằng mõ cỡ chuyên viên
 Chia xôi chia thịt lại chia quyền
 Việc làng việc nước là như vậy
 Lộn xộn cho nên phải tắt đèn.
35. Nam Cao
Anh còn đôi mắt ngây thơ
 Sống mòn sao vẫn đợi chờ tương lai
 Thương cho Thị Nở ngày nay
 Kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo.

       36. Xuân Thủy
Xoắn mãi dây tình thơ bật ra
 Paris thì thích hơn ở nhà
 Đông y ắt hẳn hơn tây dược
 Xe tải không bằng xe Vonga
 Trên đời kim cương là quý nhất
 Thứ đến tình thương dân nghèo ta
 Em chớ chê anh già lẩm cẩm
 Còn hơn thằng trẻ lượn Honđa.
37. Lưu Trọng Lư
Em không nghe mùa thu
 Mùa thu chỉ có lá
 Em không nghe rừng thu
 Rừng mưa to gió cả
 Em thích nghe mùa xuân
 Con nai vờ ngơ ngác
 Nó ca bài cải lương.
38. Nguyễn Khoa Điềm
 Một mặt đường khát vọng
 Cuộc chiến tranh đi qua
 Rồi trở lại ngôi nhà
 Cất lên ngọn lửa ấm
 Ngủ ngon a Kai ơi
 Ngủ ngon a Kai à…
39. Nguyễn Kiên
Anh Keng cưới vợ tháng mười
 Những đứa con lại ra đời tháng năm
 Trong làng kháo chuyện rì rầm
 Vụ mùa chưa gặt thóc đã nằm đày kho.
40. Anh Thơ
Ấy bức tranh quê đẹp một thời
 Má hồng đến quá nửa pha phôi
 Bên sông vải chín mùa tu hú
 Khắc khoải kêu chi suốt một đời.
41. Xuân Thiều
“Đôi vai” thì gánh lập trường
 Đôi tay sờ soạng con đường cuối thôn
 Nghe anh kể chuyện đầu nguồn
 Về nhà thấy mất cái hồn của em.
42. Nguyễn Thị Như Trang
Nhá nhem khoảng sáng trong rừng
 Để cho cuộc thế xoay vần hơn thua
 Xác xơ mầu tím hoa mua
 Lửa chân sóng báo mây mưa suốt ngày.
43. Bùi Đức Ái (Anh Đức)
Chị Tư Hậu đẻ ra anh
 Ví như hòn đất nặn thành đứa con
 Biển xa gió dập sóng dồn
 Đất tan thành đất chỉ còn giấc mơ.
44. Nguyễn Thế Phương
Đi bước nữa rồi đi bước nữa
 Phấn son mưa nắng đã tàn phai
 Cái kiếp đào chèo là vậy đó
 Đêm tàn bến cũ chẳng còn ai.
45. Vũ Trọng Phụng
Đã qua đi một thời giông tố
 Qua một thời cơm thầy cơm cô
 Còn để lại những thằng Xuân tóc đỏ
 Vẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ.
46. Xuân Thiêm
Thơ ông tang tính tang tình
 Cây đa bến nước mái đình vườn dâu
 Thân ông mấy lượt lấm đầu
 Miếng mồi danh lợi mắc câu vẫn thèm.
47. Đào Hồng Cẩm
Bắt đầu từ lão nghị hụt
 Cầm dao giết mạng người
 Chị Nhàn phải đi bước nữa
 Lấy đại đội trưởng của tôi
 Cuộc đời mấy phen nổi gió
 Phải đem tổ quốc thề bồi
 Lần này ông ra ứng cử
 Chắc hẳn là trúng nghị viên thôi.
48. Nguyễn Quang Sáng
Ông Năm Hạng trở về đất lửa
 Với chiếc lược ngà vượt Trường sơn
 Bỗng mùa gió chướng vừa nổi dậy
 Ông biến thành thằng nộm hình rơm.
49. Hoàng Văn Bổn
Có những lớp người đi vỡ đất
 Mùa mưa không trồng lúa trồng ngô
 Lại gieo hạt bông hường bông cúc
 Trên mảng đất này hoa héo khô.

      50. Phù Thăng
Chuyện kể cho người mẹ nghe
 Biển lửa bốc cháy bốn bề tan hoang
 Đứa con nuôi của trung đoàn
 Phá vây xong lại chết mòn trong vây.
51. Nguyễn Thị Ngọc Tú
 Đất làng vừa một tấc
 Bao nhiêu người đến cày
 Thóc giống còn mấy hạt
 Đợi mùa sau sẽ hay
52. Vũ Cao
Sớm nay nhấp một chén trà
 Bâng khuâng tự hỏi đâu là núi đôi
 Những người cùng làng với tôi
 Muốn sang đèo trúc muộn rồi đừng sang
53. Phan Tứ
Bên kia biên giới anh sang
 Trước giờ nổ súng về làng làm chi
 Mẫn và tôi tính chi li
 Gia đình má Bảy lấy gì nuôi anh.
54. Nguyễn Huy Tưởng
 Anh chẳng còn sống mãi
 Với thủ đô luỹ hoa
 Để những người ở lại
 Bốn năm sau khóc oà.
55. Thu Bồn
Chim Chơ rao cất cánh ngang trời
 Tình như chớp trắng cháy liên hồi
 Đám mây cánh vạc tan thành nước
 Mà đất ba dan vẫn khát hoài.
56. Bùi Hiển
 Sinh ra trong gió cát
 Đất Nghệ an khô cằn
 Bao nhiêu năm “nằm vạ”
 Trước cửa hội nhà văn.
57. Võ Huy Tâm
Đem than từ vùng mỏ
 Về bán tại thủ đô
 Bị đập chiếc cán búa
 Hoá ra thằng ngẩn ngơ.
58. Nông Quốc Chấn
 Tưởng anh dọn về làng xưa
 Ngờ đâu về tận thủ đô nhận nhà
 Sướng cái bụng lắm lắm à
 Đêm là đèo gió, ngày là hồ Tây.
59. Thế Lữ
 Với tiếng sáo thiên thai dìu dặt
 Mở ra dòng thơ mới cho đời
 Bỏ rừng già về vườn bách thú
 Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi.
60. Nguyễn Minh Châu
Cửa sông cất tiếng chào đời
 Rồi đi ra những vùng trời khác nhau
 Dấu chân người lính in mau
 Qua miền cháy với cỏ lau bời bời
 Đọc lời ai điếu một thời
 Tan phiên chợ Giát hồn người về đâu?
61. Phạm Huy Thông
 Nếu Trương Lương không thổi địch sông Ô
 Liệu Hạng Vũ có lên ngôi hoàng đế
 Nhưng buồn thay đã đánh mất Ngu Cơ
 Đời chẳng còn gì, và thơ cũng thế.
62. Giang Nam
“Xưa tôi yêu quê hương vì có chim có bướm”
 “Có những ngày trốn học bị đòn roi”
 Nay tôi yêu quê hương về có ô che nắng
 Có ghế ngồi viết những điệu thơ vui.
63. Bằng Việt
Nhen lên một bếp lửa
 Mong soi gương mặt người
 Bỗng cơn giông nổi đến
 Mây che một khung trời
 Đất sau mưa sụt lở
 Mầu mỡ trôi đi đâu
 Còn trơ chiếc guốc vàng
 Trăng mài mòn canh thâu.
64. Nguyễn Trọng Oánh
Một chút hương thơm trải bốn mùa
 Mười năm lăn lội chốn rừng già
 Quay về không chịu ơn mưa móc
 Đất nắng mưa rồi đất lại khô.
65. Nguyễn Xuân Sanh
Xưa thơ anh viết không người hiểu
 “Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”
 Nay anh chưa viết người đã hiểu
 Sắp sáng thì nghe có tiếng gà.
66. Thâm Tâm
 “Người đi, ờ nhỉ, người đi thật”
 Đi thật nhưng rồi lại trở về
 Nhẹ như hạt bụi, như hơi rượu
 Mà đắm hồn người trong tái tê.
67. Nguyễn Huy Thiệp
Không có vua thì làm sao có tướng
 Nên về hưu vẫn phải chết tại chiến trường
 Kiếm sắc chém bao nhiêu đầu giặc
 Để vàng tôi trong lửa chịu đau thương.
68. Phùng Quán
Hồn đã vượt Côn đảo
 Thân xác ở trong lao
 Bởi nghe lời mẹ dặn
 Nên suốt đời lao đao.
69. Tố Hữu
Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
 Mắt trông về tám hướng phía trời xa
 Chân dép lốp bay vào vũ trụ
 Khi trở về ta lại là ta
 Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát
 Trông về Việt Bắc tít mù mây
 Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
 Máu ở chiến trường, hoa ở đây.
70. Dương Thu Hương
Tay em cầm bông bần ly
 Bờ cây đỏ thắm làm chi não lòng
 Chuyện tình kể trước lúc rạng đông
 Hoàng hôn ảo vọng vẫn không tới bờ
 Thiên đường thì quá mù mờ
 Vĩ nhân tỉnh lẻ vật vờ bóng ma
 Hành trình thơ ấu đã qua
 Hỡi người hàng xóm còn ta với mình.
71. Hữu Thỉnh
Cùng đoàn quân anh đi tới thành phố
 Bị lạc đường về hội nhà văn
 Ờ nhỉ bao giờ quay trở lại
 Với năm anh em trên một chiếc xe tăng.
72. Trần Bạch Đằng
Ván bài lật ngửa tênh hênh
 Con đường thiên lý gập ghềnh mãi thôi
 Thay tên đổi họ mấy hồi
 Vẫn chưa tới được chân trời mộng mơ
73. Nguyễn Duy
Mẹ và em đang ở đâu
 Giữa vùng cát trắng đêm thâu gió lùa
 Ổ rơm teo tóp ngày mùa
 Xác xơ thân lúa vật vờ thân tôi
 Bờ tre kẽo kẹt liên hồi
 Bầu trời vuông với một ngôi sao dời
 Đánh thức tiềm lực suốt đời
 Ai?
 Chẳng ai đáp lại lời của tôi.
74. Nguyễn Mạnh Tuấn
 Anh đã đứng trước biển
 Cù lao Chàm kia rồi
 Nhưng khoảng cách còn lại
 Xa vời lắm anh ơi.
75. Trần Mạnh Hảo
Ôi thằng Trần Mạnh Hảo
 Đi phỏng vấn Chí Phèo
 Lão chết từ tám hoánh
 Đời mày vẫn gieo neo
 Còn cái lão Bá Kiến
 Đục bản in thơ mày
 Bao giờ mày say rượu
 Bao giờ mày ra tay
76. Hoàng Cầm
Em ơi buồn làm chi
 Em không buồn sao được
 Quan họ đã vào hợp tác
 Đông hồ gà lợn nuôi chung
 Bên kia sông Đuống em trông
 Tìm đâu thấy lá diêu bông hỡi chàng.
77. Lê Lựu
Người về đồng cói người ơi
 Phía ấy mặt trời mọc lại
 Một thời xa vắng, xa rồi
 Phủ Khoái xin tương oai oái
 Ở đời gặp may hơn khôn
 Nào ai dám ghen dám cãi
 Người đã đi Mỹ hai lần
 Biết rồi, khổ lắm, nói mãi1
78. Vũ Quần Phương
 Anh đứng thành tro… em có biết
 Hôm qua lại gặp chuyến xe bò
 Vẫn anh đi trong vầng trăng cũ
 Áo đỏ bên cầu đợi ngẩn ngơ.
79. Hữu Loan
Ôi màu tím hoa sim
 Nhuốm tím cuộc đời dài đến thế
 Cho đến khi tóc bạc da mồi
 Chưa làm được nhà
 còn bận làm người
 Ngoảnh lại ba mươi năm
 Tìm mãi nghìn
 chiều hoang
 biền biệt
80. Lý Văn Sâm
Kiên Trì dấn bước đường chinh chiến
 Nửa gánh giang hồ nửa ái ân
 Ngàn sau sông Dịch còn tê lạnh
 Tráng sĩ có về với bến xuân.
     81. Tản Đà
 Văn chương thuở ấy như bèo
 Thương cụ gồng gánh trèo leo tận trời
 Giấc mộng lớn đã bốc hơi
 Giộc mộng con suốt một thời bơ vơ
 Tiếc chi cụ sống tới giờ
 Chợ trời nhan nhản tha hồ bán văn.
82. Lưu Quang Vũ
 Cũng muốn tin vào hoa hồng
 Tin vào điều không thể mất
 Cả tôi và cả chúng ta
 Đứng trong đầm lầy mà hát
 Ông không phải là bố tôi
 Con chim sâm cầm đã chết
 Ông không phải là bố tôi
 Con chim sâm cầm ai giết1
83. Hà Minh Tuân
Bốn mươi tuổi mới vào đời
 Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ
 Giữa hai trận tuyến ngu ngơ
 Trong lòng Hà nội bây giờ ở đâu?
84. Minh Huệ
Vỡ lòng câu thơ viết
 Mời bác ngủ bác ơi
 Đêm nay bác không ngủ
 Nhà thơ ngủ lâu rồi
85. Văn Cao
 Thiên thai – từ giã về dương thế
 Nhắc chi ngày ấy buồn lòng ta
 Sân đình ngất ngưởng ngôi tiên chỉ
 Uống rượu say rồi hát quốc ca
86. Ma Văn Kháng
 Khi xuôi anh mang theo
 Đồng bạc trắng hoa xòe
 Với một mối tình sơn cước
 Mùa lá rụng trong vườn
 Năm này qua năm khác
 Đám cưới vẫn không thành
 Vì giấy gía thú chửa làm xong
87. Vũ Bão
 Sắp cưới bỗng có thằng phá đám
 Nên ông chửi bố chúng mày lên
 Đàu chày đít thớt đâu còn ngán
 Không viết văn thì ông viết phim.
88. Hồ Dzếnh
 Biết mấy mươi chiều khói thuốc bay
 Quê nhà vẫn lẩn khuất trong mây
 Lui về ký ức chân trời cũ
 Uống chén rượu buồn không dám say.
89. Hoàng Phủ Ngọc Tường
Trăm năm ông phủ… Ngọc Tường ơi
 Cái nợ lên xanh rũ sạch rồi
 Cửa Việt tung hoành con sóng vỗ
 Sông Hương lặng lẽ chiếc thuyền trôi
 Sử thi thành cổ buồn nao dạ
 Chuyện mới Đông hà tái nhợt môi
 Từ biệt chốn xưa nhiều ánh lửa
 Trăm năm ông phủ… Ngọc Tường ơi!
90. Phạm Thị Hoài
 Dẫu chín bỏ làm mười
 hay mười hai cũng mặc
 Chẳng ai dung thiên số đất này
 Dụ đồng đội vào trong mê lộ
 Rồi bỏ đi du hí đến năm ngày.
91. Thanh Thảo
Giặc dã yên rồi về
 xoay khối vuông Ru bích
 Đoán vận rủi may
 Thưa quý vị, xin mời1
 Xanh tím trắng đỏ vàng đều rõ hết
 Ta cùng vào cuộc chơi.
 Không gian bốn năm chiều,
 thời gian xin tuỳ thích
 Đảo lộn tùng phèo thật gỉa trắng đen
 “Tôi như cục xà bông thứ thiệt”
 Cứ đổ rượu vào
 hình quý vị sẽ hiện lên.
92. Trần Dần
Người người lớp lớp
 xông ra trận
 Cờ đỏ
 mưa sa
 suốt dặm dài
 Mở đợt phá khẩu
 tiến lên
 nhất định thắng
 Lô cốt mấy tầng
 đè nát vai
 Dẫu sông núi cỏ cây làm chứng
 Hồn vẫn treo trên
 Vọng hải đài.
93. Khương Hữu Dựng
 Ba lô trên vai từ đêm mười chín
 “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”
 Thì cứ khắc đi rồi khắc đến
 Sao còn ngồi đấy cụ già Khương?
94. Bùi Minh Quốc
Tuổi hai mươi xung phong lên Tây bắc
 Nguyện hi sinh chiến đấu dưới cờ
 Lại xung phong vào Nam đánh giặc
 Với bà cụ đào hầm đầu bạc phơ phơ
 Hoà bình rồi tiến lên đổi mới
 Bất ngờ ngã ngựa chốn non cao
 Dẫu thân thể mang đày thương tích
 Thì cuộc đời vẫn đẹp sao
 Tình yêu vẫn đẹp sao1
95. Ý Nhi
Trái tim với nỗi nhớ ai
 Như cây trong phố đứng hoài chờ trăng
 Như người đàn bà ngồi đan
 Sợi dọc thì rối, sợi ngang thì chùng.
96. Yến Lan
Ra đi từ bến My Lăng
 Bao năm dấu kín ánh trăng trong lòng
 Tuổi già về lại bến sông
 Trăng xưa đã lớn, phải chong đèn dầu
97. Phan Thị Thanh Nhàn
Dấu một chòm thơ trong chiếc khăn tay
 Em hăm hở đi tìm người trao tặng
 Những kẻ phong lưu, những tên du đãng
 Mấy ai biết hương thầm của cô gái xóm đê.
98. Trần Đăng Khoa
Chú dế góc sân hồn nhiên ca hát
 Hát thành thơ như nước triều lên
 Khi khôn lớn lại hồn nhiên đi giữa
 “Biển một bên và em một bên”.
99. Hoàng Lại Giang
Người đàn bà một thời tôi ao ước
 Trên vành đai Mỹ những năm xưa
 Tình yêu đã lụi tàn cùng ký ức
 Nhưng còn đây tàn lụi đến bao giờ?
100. Xuân Sách (Tự hoạ)
 Cô giáo làng tôi đã chết rồi
 Một đêm ra trận đất bom vùi
 Xót xa đình Bảng người du kích
 Đau đớn Bạch đằng lũ trẻ côi
 Đường tới chiến công gân cốt mỏi
 Lối vào lửa sởn tóc da mồi
 Mặt trời ảm đạm quê hương cũ
 Ở một cụm đường rách tả tơi.
Nguồn: Theo bản in của Nhà xuất bản Văn học, in tại nhà in Bộ Nội Vụ tháng       3 năm 1992, bản đăng trên talawas có sự đồng ý của tác giả.

Tâm sự của Xuân Sách
      Những bài thơ chân dung các nhà văn của tôi ra đời trong trường hợp rất tình cờ. Hôi ấy bước vào thập kỷ 60, tôi đang độ tuổi và mới từ đơn vị được chuyển về Tạp chí Văn nghệ quân đội ở ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế, Hà nội. Ngoài công việc của toà soạn tờ báo ra thời gian của chúng tôi dành nhiều cho học tập chính trị. Những vấn đề thời sự trong nước, thế giới, những đường lối, chỉ thị, nghị quyết, những vấn đề tư tưởng lâu dài và trước mắt… đều phải học tập nghiêm túc, có bài bản. Học một ngày, hai ngày, có khi cả tuần, cả tháng. Lên lớp, thảo luận, kiểm điểm, làm sao sau mỗi đợt học, nhận thức và tư tưởng từng người phải được nâng cao lên một bước. Những buổi lên lớp tập trung tại hội trường gồm hàng ngàn sĩ quan, anh em văn nghệ, các nhà văn, các hoạ sĩ, nhạc sĩ… thường ngồi lập trung với nhau ở những hàng ghế cuối hội trường thành một “xóm” văn nghệ. Để chống lại sự mệt mỏi phải nghe giảng về hai phe, bốn mâu thuẫn, về ba dòng thác cách mạng, về kiên trì, tăng cường, nỗ lực, quyết tâm… mấy anh văn nghệ vốn quen thói tự do thường rì rầm với nhau những câu chuyện tào lao hoặc che kín cho nhau để hút một hơi thuốc lá trộm, nuối vội khói, nhiều khi ho sặc sụa. Nhưng rồi những chuyện đó cũng bị phát hiện, bị nhắc nhở phê bình. Vậy phải thay đổi chuyển sang “bút đàm”.
 Vào năm 1962 có đợt học tập quan trọng, học nghị quyết 9, nghị quyết chống xét lại, chống tư tưởng hoà bình chủ nghĩa, và dĩ nhiên văn nghệ là một đối tượng cần chú ý trong đợt học này. Hội trường tập trung đông, trời nắng, hơi nóng từ cái sân láng xi măng hắt lên như thiêu như đất. Quân đội đang tiến lên chính quy hiện đại, ăn mặc phải tề chỉnh đầy dủ cân đai bối tử, đi giầy da, những đôi giẫy cao cổ nặng như cùm. Bọn tôi trừ vài trường hợp như Vũ Cao, Nguyễn Khải có đôi chân quá khổ, có cớ chưa có giầy đúng số để đi dép, nhưng cũng là những đôi dép có quai hậu, ngồi học cũng không được tụt quai. Nhân đây tôi xin nói thêm về Vũ Cao. Ông là người biệt danh “quanh năm đi chân đất”, ở nhà số 4 các phòng sàn ván đều được lau bóng để đánh trần nằm xuống mà viết. Quy định ai vào phòng phải bỏ giầy dép trừ… Vũ Cao, bởi để ông đi dép vào phòng còn sạch hơn đi chân trần. Giờ đây ngồi học được ưu tiêu đi dép vẫn là nỗi cực khổ đối với ông.
 Trong buổi lên lớp căng thẳng như thế, Nguyễn Trọng Oánh xé vỏ bao thuốc lá Tam Đảo viết một bài thơ chữ Hán trao cho tôi. Ở Văn nghệ quân đội, Oánh được gọi là ông Đồ Nghệ giỏi chữ Hán và tôi được gọi là Đồ Thanh bởi cũng vỏ vẽ đôi ba chữ thánh hiền. Oánh bảo tôi dịch bài thơ Oánh viết vịnh Xuân Thiều. Xuân Thiều cũng ở lứa tuổi chúng tôi nhưng trông già dặn vì cái đầu hói, tóc lơ thơ. Con dường văn chương mới bước vào còn lận đận. Mới in được tập truyện ngắn đầu tay “Đôi Vai”, tập tiểu thuyết “chuyển vùng” viết về cuộc chiến đấu chống Pháp ở Bình Trị Thiên mà Thiều tham dự, đã sửa chữa nhiều lần, đưa qua nhiều nhà xuất bản chưa “nhà” nào chịu in. Tôi thấy bài thơ Oánh viết rất là hay và dịch:
Văn nghiệp tiền trình khả điếu quân
 Mao đầu tận lạc tự mao luân
 Lưỡng kiên mai hếu phong trần lý
 Chuyển địa hà thời chuyển đắc ngân
Dịch nghĩa:
 Con dùng văn nghiệp khá thương cho ông
 Lông đầu ông đã rụng trơ trụi
 Đôi vai lầm lủi trên con đường gió bụi
 Chuyển vùng đến bao giờ thì chuyển thành tiền được?
Dịch thơ:
Con đường văn nghiệp thương ông
 Lông đầu rụng hết thư lông cái gầu
 Đôi vai gánh mãi càng đau
 Chuyển vùng nào nữa làm sao thành tiền?
Dịch song tôi chuyển bài thơ cho anh em đọc. Oánh tỉnh bơ với bộ mặt lạnh lùng cố hữu còn mọi người phải nén cười cho khỏi bật thành tiếng. Nguyễn Minh Châu gục xuống bàn kìm nén đến nôi mặt đỏ bừng và nước mắt dàn dụa.
 Tự nhiên trong đầu tôi lóe lên cái ý nghĩ mà người ta thường gọi là “tia chớp”. Thơ chân dung! Trong bài thơ của Oánh phác hoạ một Xuân Thiều với hình dáng và văn nghiệp bằng cách dùng nghĩa kép của tên tác phẩm: “Đôi Vai” “Chuyển Vùng”. Và sau chốc lát, tiếp tục trò đùa của Oánh tôi viết bài thơ về Hồ Phương, đang ngồi cạnh tôi, và bài thơ số một về chân dung các.. nhà văn ra đời. Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều tác phẩm, đã được một số giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng tên các tập truyện của anh: “Trên biển lớn” “Xóm mới” “Cỏ non” và tên cái truyện ngắn đầu tay vẫn được nhắc đến: “Thư nhà”. Tôi viết bài thơ ra mẫu giấy:
Trên biển lớn lênh đênh sóng nước
 Ngó trông về xóm mới khuất xa
 Cỏ non nay chắc đã già
 Buồn tênh lại giở thư nhà ra xem
 Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải.
 Anh đọc xong trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đọi, anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra ngồi quanh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương đọc. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi run. Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh:
 -Thằng này (chỉ tôi) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi!
 Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông thường bài thơ còn chạm vào tính cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn thì có gì quan trọng hơn là tính cách và tác phẩm. Bài thơ ngụ ý Hồ Phương có viết nhiều chăng nữa văn không vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ: buồn tênh lại giở thư nhà ra xem…”
 Trước đây khi còn là lính ở địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đấy là những con người dị biệt rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến dường như họ là một siêu tầng lớp trong xã hội. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, lời nói của họ đều có thể trở thành giai thoại, và cả tật xấu nữa, dường như cũng đứng ngoài vòng phán xét thông thường. Tóm lại đó là một thế giới đầy sức hấp dẫn đối với người say mê văn học và tập tễnh nuôi mộng viết văn như tôi. Khi tôi được về Hà nội vào một cơ quan văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta quân đội có một vị trí đặc biệt trong xã hội kể cả lĩnh vực văn chương) tôi bắt đầu đi vào cái thế giới mà trước kia tôi mơ ước. Điều tôi nhận ra là ngoài cái phần tôi hiểu trước đây thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đó là cái mặt đời thường, cái mặt rất chúng sinh và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm và tính cách nhà văn. Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa nếu “vẽ” được chính xác những bức chân dung đó, thì bộ mặt xã hội của thời dại họ đang sống cũng qua đó mà hiện lên. Có thể, tôi nghĩ, không có tầng lớp nào hơn các nhà văn thể hiện rõ nhất bộ mặt tinh thần của dân tộc qua từng giai đoạn. Những điều này tôi nhận ra sau một thời gian dài khi những bài thơ chân dunglần lượt được ra đời, được phổ biến một cách không chính thức nhưng sâu rộng và dai dẳng, vượt cả sự mong muốn của tôi. Cũng chính các nhà văn giúp tôi nhiều trong sáng tác cũng như phổ biến các bài thơ. Bởi khi nhận định về tính cách con người, tính cách các nhà văn thì không ai sắc sảo bằng các nhà văn. Người giúp tôi nhiều nhất là anh Nguyễn Khải. Anh có mối quan hệ rộng rãi trong giới, có lối nhận xét người rất sắc sảo, chính xác dù có đôi lúc cực đoan. Anh không mấy thích thơ, nhưng anh lại thích những nhà văn chân dung. Anh có nói đại ý là các nhà văn chúng ta quen đánh giá nhận xét mọi tầng lớp người trong xã hội thì cũng cần tự đánh giá mình, cũng đều có cái tốt cái xấu như ai. Về sau thêm anh Vương Trí Nhàn về Văn nghệ quân đội. Nhà phê bình văn học trẻ tuổi này hết sức cổ suý tôi, đôi khi anh còn thách đố. Chúng tôi thường ngồi trong cái phòng “toilet” khoảng ba mét vuông, do hệ thống bơm nước lên tầng hai bị hỏng nên cái phòng vệ sinh đó biến thành phòng văn. Nó được ốp gạch men trắng bóng, lau sạch ngồi thật mát và thoải mái kín đáo. Có những hôm Nhàn mua sẵn vài ba điếu thuốc lá lẻ, vài cái kẹo lạc, một ấm trà ngon rồi thách thức tôi viết ngay tại chỗ. Và đã có nhiều bài thơ ra đời như thế. Nhàn nói: “Những bài thơ này ông Sách viết ra khi có quỷ ám vào ông ấy”. Bởi Nhàn đánh giá tôi có một giọng điệu khác hẳn trong những sáng tác không phải thơ chân dung. Nhàn là người rất thuộc thơ, và khi bài thơ tôi vừa làm xong thường anh là người phổ biến rộng rãi. Một số anh em trẻ khác như các anh Định Nguyễn, Trần Hoàng Bách thường đem những bài thơ đi phổ biến để được chiêu đãi bia hơi. Có thể nói đó là “nhuận bút” đầu tiên, nhưng không thuộc về người sáng tác mà thuộc về người phát hành.
 Tất nhiên những bài thơ đó được phổ biến rộng trong giới. Lúc dầu còn kín đáo, nhưng dần dần thành công khai và nhất là thành một “tiết mục” không thể thiếu trong những liên hoan của anh em văn nghệ. Có một buổi cũng khá đông đủ các nhà văn, khi vào tiệc rượu, mọi người yêu cầu tôi đọc thơ về các nhà văn có mặt, trong không khí như vậy thì dù các anh các chị ấy có giận cũng cười xoà làm vui. Riêng tôi thấy mình làm được trò vui cho mọi người cũng hay chứ sao. Tôi nhớ sau buổi vui, anh Nguyễn Đình Thi có nói đại ý nên đem cái tài đó làm những việc có ích hơn là châm chọc nhau. Ngay đó một anh ngồi bên cạnh rỉ tai tôi: “châm chọc cũng cần có tài và có ích lắm chứ “
 Những bài thơ cũng được lan truyền sang các giới khác. Hồi đó tướng Lê Quang Đạo là phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị, cấp trên của giới văn nghệ trong quân đội, ông rất thích những bài thơ chân dung, thường trong giờ nghỉ những buổi họp với giới văn nghệ ông đề nghị đọc cho ông nghe. Sự thích thú tuy có tính cách cá nhân nhưng rất hay cho tôi. Tôi cũng nhận được nhiều phản ứng khác nhau, có khi khen quá lời, có khi bực tức. Tôi kể ra vài trường hợp đặc biệt. Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử những lính cách của các nhà văn, ngoài những tác phẩm mà tôi thường ngưỡng mộ tôi cứ băn khoăn tự hỏi: “Sao thế nhỉ? Với bề dày tác phẩm thư thế, với vị trí trong xã hội như thế, trong lòng ngườí đọc như thế, sao họ còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước ngoài… Mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, phải dối trá và nhất là phải sợ hãi”. Một lần trên báo đăng một bài thơ dài của một nhà thơ có tên tuổi viết theo thời tiết chính trị, quay ngược lại với những điều vừa viết chưa lâu, Nguyễn Khải chỉ bài thơ nói với tôi: “Rất tiếc một tài năng lỡ tàu!”
 Tôi không nghĩ mình đứng ra ngoài cuộc để phán xét, muốn làm cặp mắl thứ hai trong một bài thơ để tự bạch, tự cảm thông với mình và cũng tự giận mình. Tôi vốn yêu thích và kính phục tài thơ Chế Lan Viên, nhưng bài thơ tôi viết về ông lại nói khía cạnh khác. Mỗi lần gặp lại tôi ông lại tỏ ra rất thân thiện. Điều đó làm cho tôi bối rối, phải chăng ông đã hiểu điều gì đó về ông về tôi. Lúc ông Hoài Thanh già yếu phải vào bệnh viện, tôi đến thăm ông. Ông không giận tôi nữa, còn cho tôi là người có tình và ông thấy những gì tôi viết về ông có phần đúng. Ông đề nghị chữa một chữ trong bài thơ. Khi ông mất, tôi đi viếng, nhìn khuôn mặt ông qua lấm kính, và các con ông oà khóc, tôi bỗng cảm thấy mình như người có tội.
 Một lần gặp Xuân Diệu trong quán bia hơi, tôi nâng cốc bia chúc mừng ông vừa được bầu làm viện sĩ của Viện hàn lâm nghệ thuật nước CHDC Đức, ông chạm cốc:
 - Chúc mừng họ Ngô nhà ta, những bài thơ của cậu đi vào cõi bất tử.
 Điều tôi không ngờ là cụ Đặng Thai Mai cho người gọi tôi đến nhà bảo tôi đọc thơ chân dung cho cụ nghe. Con người nổi tiếng uyên bác thâm trầm ấy ngồi đặt cầm lên đầu gối cười khục khục. Đột ngột cụ ngước cặp mắt tinh anh lên nhìn tôi: “Thế còn Đặng Thai Mai?” Tôi lúng túng: “Viết về bác rất khó, cháu đang suy nghĩ thưa bác”. Dường như ông cụ không tin lời tôi. Ít lâu sau cụ lại gọi đến: “Anh viết về tôi rồi chứ?” Trước tôi chỉ nghĩ cụ không để ý đến cái trò chơi chữ ngông nghênh này, hoá ra cụ quan tâm thật sự khiến tôi vừa cảm động vùa thích thú. Nhưng biết sao được, viết về cụ thật là khó và đến nay tôi vẫn chưa viết được.
 Còn cụ Nguyễn Tuân, con người vốn thích đùa một cách… cao sang và thâm trầm thích ăn nem rán nóng bỏng thì gắp lên đặt xuống cái nem nghe thơ và phán: “Hóm, thằng này hóm”. Nói về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của một thời. Câu thơ: “Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm” đâu chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã dành là khó ai vượt được thời đại mình đang sống, không dễ nói hết nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, cong lưng quỳ gối trước quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá cũng dễ hiểu, cái con “quỷ ám” nếu có thì cũng là ảnh hưởng của những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗ đau.
 Những bài thơ chân dung đã có cuộc sống riêng của không phải kỳ lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lưu truyền đến đã ba mươi năm. Đã có nhiều bài “khảo dị” nhiều bài ngoài luồng cũng được gán cho tác giả. Bây giờ in ra cũng coi như một sự đính chính. Nó cũng là “một cái gì đó” như có người đã nói nên mới tại được nếu nó có ích thì tác giả cũng lấy làm mãn nguyện.                                                                Ngày Xuân năm Nhâm Thân

Số phận của “ Chân dung nhà văn “ 
 Xuân Sách, người qua đời tại Hà Nội tối 2-6, đạt thành tựu trong cả văn xuôi và thơ trữ tình nhưng nổi tiếng nhất với tập “ Chân dung nhà văn “ .
 Đó là 99 ký họa nhà văn (cùng một bài tự họa) lột tả thần thái của nhiều trong số tác giả quan trọng nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại.
 Xuân Sách dùng chính các tên bài hay câu thơ, tác phẩm văn , kịch nổi tiếng nhất của các đồng nghiệp để dựng chân dung của họ.
Đường đi của tác phẩm
       Tập thơ này được in năm 1992 và gây ra tranh cãi rất lớn.
 Nhà văn Hoàng Lại Giang, khi đó là Trưởng chi nhánh NXB văn học ở TP. HCM, kể lại với tư cách người tham gia xuất bản tập thơ.
 “ Chân dung Nhà văn bắt đầu từ băng ghi âm của Tướng Trần Độ. Anh Trần Độ về Vũng Tàu gặp và muốn nghe chân dung qua giọng đọc của anh Xuân sách. Ông ghi Sau khi được nghe cuốn băng, ông Hoàng Lại Giang đặt vấn đề với Xuân Sách  là sẽ cho in thành tác phẩm. Ông Giang lại nói chuyện với ông Lữ Huy Nguyên, Giám đốc NXB Văn  học, và cuốn sách được in xong chỉ trong thời gian một tuần, với số lượng 3000 bản.
 Ông Hoàng Lại Giang kể tiếp: “In xong thì phản ứng của nhà văn rất lớn, và đấy là điều tôi không ngờ đến.”
 “Những nhà văn lớn có bản lĩnh, họ chịu đựng nổi, im lặng. Nhưng những nhà văn  tầm tầm, lồng lộn, rất gay gắt yêu cầu Bộ Văn hóa kiểm điểm và thu hồi.”
 Phần thơ mô tả các quan chức trong giới văn nghệ Việt Nam từ ông Tố Hữu đến Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi đã làm dư luận chú ý.
 Bài về Lưu Quang Vũ đặt cả câu hỏi cái chết bất ngờ khi còn trẻ của đạo diễn sân khấu: “Ông không phải là bố tôi, Con chim sâm cầm ai giết! “
 Một cuộc họp của Bộ Văn hóa diễn ra, với năm đại diện: Ba thứ trưởng (Phan Hiền, Huy Cận, và Nông Quốc Chấn), đại diện Hội Nhà văn Vũ Tú Nam, cùng Giám đốc NXB Văn học Lữ Huy Nguyên.
 Buổi tối trước ngày họp, ông Giang nói với ông Nguyên rằng việc xuất bản cuốn sách là trách nhiệm của ông, thì để ông “chịu tội”. Ông Nguyên không chịu: “Tôi không thể làm như thế.”
 Dừng lại một lúc, ông Nguyên nói: “Tôi biết ông thân với anh Huy Cận và anh Huy Cận cũng rất quý ông. Nếu ông thuyết phục anh Huy Cận ủng hộ thì chúng ta sẽ thoát được khi bên ta được ba phiếu bên chống ta còn lại hai phiếu”.
 Ông Giang gọi điện thoại ra cho nhà thơ Huy Cận. “Anh rầy tôi cũng dữ, nhưng cuối cùng anh bảo thôi được, để anh tìm cách giúp.”
 Kết quả tại phiên họp, có ba người không phản ứng mạnh, “chiều lòng” Hội Nhà văn bằng quyết định niêm phong số bản in còn lại, nhưng không thu hồi.
Nhân cách nhà văn
 Tập thơ đã lan truyền rộng rãi trong dân gian từ đó tới nay.
 Ông Nguyễn Hòa, chủ biên trang mạng Văn học Việt và là bạn thân của ông Xuân sách, đánh giá với tập Chân dung nhà văn , ông Xuân Sách đã chứng tỏ sự trung thực của một người cầm bút.
 “Anh ấy rất can đảm khi đụng đến các lãnh đạo văn nghệ. Anh cho người ta thấy chân dung của Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Tố Hữu…Qua tập thơ, anh thể hiện đúng sự thẳng thắn của người cầm bút.”
 Từ Hà Nội, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo nói ông là người rất “hóm hỉnh và giàu tính tự trào”.
 “Tính tự trào của thơ Xuân sách đặc biệt bộc lộ qua tập Chân dung Nhà văn. Ông đã nắm bắt tính cách các nhà văn rất sắc sảo và tinh tế.”
 Theo ông Nguyễn Trọng Tạo, Xuân Sách có công lớn khi ông “tạo được một dòng mạch khiến người ta phải chú ý” trong lối thơ tự vịnh, tự trào.
 Nhà văn Đa Linh (Nguyễn Đức Hùng), phó giám đốc nhà xuất bản Đà Nẵng, kể “anh em nhà văn gặp nhau, rất hay trao đổi về tác phẩm này” và theo ông, rất khó có ai khác làm được như Xuân sách .
 Trong mắt ông Nguyễn Hòa, thể loại khắc họa chân dung nhà văn không thiếu người viết, nhưng thành tựu không nhiều.
 “Thường thường họ chỉ kể vài sự kiện quen thân với nhau. Nếu giới thiệu chung chung về nhân vật thì bài ấy đạt, nhưng sâu hơn thì còn nhạt nhòa.”
 Ông Hòa nói có hai lý do khiến thể loại chân dung văn nghệ sĩ, dù là bằng thơ hay văn xuôi, khó phát triển là vì không khí xã hội Việt Nam và quan hệ giữa người trong giới với nhau.
 “Nhận định chưa nói ra, người ta đã bảo nó là sai lạc, thế này thế khác, thì thật khó. Ở đây, anh Phạm Lưu Vũ có viết một loạt bài như Xuân Sách , trong đó có một bài rất hay về Hữu Thỉnh. Có một số anh em cũng viết đấy, nhưng chỉ truyền miệng hay viết tay cho nhau. Đưa ra thì phức tạp lắm.”

 Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo kết luận: “Dòng thơ chân dung nhà văn có lẽ sẽ không phát triển nhiều. Một người khác làm cả một tập thơ, tiếp tục Xuân Sách, hay có thể nổi danh hơn Xuân Sách , chưa có.”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét