Xuân Sách
NXB Văn Học
3-1991
Tiếp theo cuốn Thương nhớ tài hoa của Nguyễn Vũ Tiềm, phác
thảo chân dung của năm mươi nhà thơ, nhà văn đã quá cố, những cây bút có những
đóng góp đặc sắc cho nền văn học của đất nước, hôm nay Nhà xuất bản Văn học gửi
tới bạn đọc một tập hợp khác về chân dung các nhà văn.
Đây là những kí
hoạ có tính đặc tả của Xuân Sách, những chân dung vốn đã khá phổ biến trong và
ngoài giới văn học suốt vài chục năm qua.
Tác giả không nêu
đích danh ai, nhưng dưới nét bút phác thảo, những độc giả quan tâm tới văn học
và người làm văn học, vẫn có thể nhận ra từng đối tượng. Dĩ nhiên thể loại này
thường cố ý phóng to các đặc điểm và khi nhìn vào nét đặc tả ấy – tuy mất cân
đối và đôi khi phiến diện – vẫn dễ dàng nhận ra diện mạo, cốt cách từng nhân
vật.
Chất vui, hóm và
nhất là khả năng chơi chữ có thể khiến người ta ngạc nhiên một cách thú vị,
nhưng cũng có thể gây nên những sự không hài lòng đây đó…
Chúng tôi chỉ coi
đây là những nét tự trào của giới cầm bút, cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những
xót xa, hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên những chặng
đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình hoặc hiểu mình thêm qua cái
nhìn của người cùng hội, cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong
truyền thống dân gian vốn là vũ khí, ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy
đi tới phía trước.
Với ý nghĩ ấy,
chúng tôi mong bạn đọc và các nhà văn thông cảm cho những gì bất cập hoặc chưa
lột tả được thần thái của từng chân dung.
Dù sao đây cũng là 100 bức tranh nhỏ về những người có công
trong văn học, những người nổi tiếng trong làng văn, trong bạn đọc bằng chính
những tác phẩm có giá trị của mình.
Rất mong bạn đọc
và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ
cho những khiếm khuyết.
Nhà xuất bản Văn học
1. Hồ Phương ( bản của NXB Văn học không có tên 100 nhà
văn trong thơ. Tô Oanh đã thêm vào )
Trên biển lớn mênh
mông sóng nước
Ngó trông về xóm mới
khuất xa
Cỏ non nay chắc đã
già
Buồn tênh lại giở thư
nhà ra xem.
2. Nguyễn Đình Thi
Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
Đã vào lửa đỏ hãy còn
mơ
Bay chi mặt trận trên
cao ấy
Quên chú nai đen vẫn
đứng chờ.
3. Tô Hoài
Dế mèn lưu lạc mười năm
Để O Chuột phải ôm
cầm thuyền ai
Miền tây sen đã tàn
phai
Trăng thề một mảnh
lạnh ngoài đảo hoang.
4. Nguyên Hồng
Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
Sóng gầm sông Lấp mấy
ai hay
Cơn bão đến động rừng
Yên thế
Con hổ già uống rượu
giả vờ say
5. Nguyễn Công Hoan
Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
Bởi còn tranh tối bác
nhầm thôi
Bới tung đống rác nên
trời phạt
Trời phạt chửa xong
bác đã cười.
6. Nguyễn Tuân
Vang bóng một thời
đâu dễ quên
Sông Đà cũng muốn đẩy
thuyền lên
Chén rượu tình rừng
cay đắng lắm
Tờ hoa lại trót lỡ ưu
phiền.
7. Huy Cận
Các vị La hán chùa Tây phương
Các vị gày quá tôi
thì béo
Năm xưa tôi hát vũ
trụ ca
Bây giờ tôi hát đất
nở hoa
Tôi hát chiến tranh
như trẩy hội
Không nên xấu hổ khi
nói dối
Việc gì mặt ủ với mày
chau
Trời mỗi ngày lại
sáng có sao đâu!
8. Xuân Diệu
Hai đợt sóng dâng một
khối hồng
Không làm trôi được
chút phấn thông
Chao ơi ngói mới nhà
không mới
Riêng còn chẳng có,
có gì chung.
9. Tế Hanh
Quá tuổi hoa niên đã bạc đầu
Tình còn dang dở tận
Hàng Châu
Khúc ca mới hát sao
buồn thế
Hai nửa yêu thương một
nửa sầu.
10. Chế Lan Viên
Điêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tàn
Ta nghĩ tới vàng son
từ thuở ấy
Chim báo bão, lựa
chiều cơn gió dậy
Lựa ánh sáng trên đầu
mà thay đổi
sắc phù sa
Thay đổi cả cơn mơ,
ai dám bảo con tầu
không mộng tưởng
Mỗi đêm khuya không
uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tầu,
ta cũng uống
Mặt anh em trong suối
cạn
Hội nhà văn
11. Nguyễn Thi
Trăng sáng soi riêng một mặt người
Chia ly đôi bến cách
phương trời
Ước mơ của đất anh về
đất
Im lặng mà không cứu
nổi đời.
12. Kim Lân
Nên danh nên gía ở làng
Chết về ông lão bên
hàng xóm kia
Làm thân con chó xá
gì
Phận đành xấu xí cũng
vì miếng ăn.
13. Tú Mỡ
Một nắm xương khô cũng gọi mỡ
Quanh năm múa bút để
mua cười
Tưởng cụ vẫn bơi dòng
nước ngược
Nào ngờ trở gió lại
trôi xuôi.
14. Bùi Huy Phồn (Đồ Phồn)
Phất rồi ông mới ăn
khao
Thơ ngang chạy dọc
bán rao một thời
Ông đồ phấn, ông đồ
vôi
Bao giờ xé xác để tôi
ăn mừng.
15. Hoài Thanh
Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị
người ngồi trên
Thi nhân còn một chút
duyên
Lại vò cho nát lại
lèn cho đau
Bình thơ tới thuở bạc
đầu
Vẫn chưa thể tất nổi
câu nhân tình
Giật mình mình lại
thương mình
Tàn canh tỉnh rượu
bóng hình cũng tan
16. Vũ Tú Nam
Vốn cùng nhân dân
tiến lên
Mùa đông năm ấy bỏ
quên cờ đào
Con về nấp bóng ca
dao
Giật mình nghe một
tiếng chào:
Văn Ngan?
17. Hữu Mai
Hỏng đôi mắt phải đâu là mất hết
Trong cặp còn hồ sơ
điệp viên
Ông cố vấn chẳng sợ
gì cái chết
Cao điểm cuối cùng
quyết chí xông lên.
18. Đỗ Chu
Đám cháy ở sau lưng
Đám cháy ở trước mặt
Than ôi mày chạy đâu
Dưới vòm trời quen
thuộc
Đốt bao nhiêu cỏ mật
Không bay mùi thơm
tho
Càng hun càng đỏ mắt
Quay về thung lũng cò
19. Xuân Quỳnh
Mải hái hoa dọc chiến hào
Bỏ quên chòi biếc lúc
nào không hay
Thói quen cũng lạ
lùng thay
Trồng cây táo lại mọc
cây bạch đàn
20. Phạm Tiến Duật
Trường sơn đông em đi hái măng
Trường sơn tây anh
làm thơ cho lính
Đời có lúc bay lên
vầng trăng
Lại rơi xuống chiếc
xe không kính
Thế đấy! giữa chiến
trường
Nghe tiếng bom cũng
mạnh!
21. Nguyễn Thành Long
Thao thức năm canh
nghĩ chẳng ra
Trò chơi nguy hiểm
đấy thôi mà
Lặng lẽ giữa khoảng
trong xanh ấy
Để mối đùn lên đến
lúc già.
22. Đào Vũ
Trời thí cho ông vụ lúa chiêm
Ông xây sân gạch với
xây thềm
Con đường mòn ấy ông
đi mãi
Lưu lạc đâu rồi mất
cả tên
23. Nguyễn Bính
Hai lần lỡ bước sang ngang
Thương con bướm đậu
trên giàn mồng tơi
Trăm hoa thân rã cành
rời
Thôi đành lấy đáy
giếng thơi làm mồ.
24. Nguyễn Văn Bổng
Nhọc nhằn theo bước con trâu
Hỡi người áo trắng
nông sâu đã từng
Mỗi bước đi một bước dừng
Mà sao vẫn lạc giữa
rừng U minh.
25. Nguyên Ngọc
Mấy lần đất nước đứng
lên
Đứng lâu cũng mỏi cho
nên phải nằm
Hại thay một mạch
nước ngầm
Cuốn trôi đất Quảng
lẫn rừng Xà nu
26. Vũ Thị Thường
Từ trong hom giỏ chui ra
Đã toan gánh vác sơn
hà chị ơi
Định đem cái lạt buộc
người
Khổ thay ông lão vịt
trời phải chăn
27. Quang Dũng
“Sông Mã xa rồi tây tiến ơi”
Về làm xiếc khỉ với
đời thôi
Nhà đồi một nóc chênh
vênh lắm
Sống tạm cho qua một
kiếp người
Áo sờn thay chiếu anh
về đất
Mây đầu ô trắng, Ba
vì xanh
Gửi hồn theo mộng về
tây tiến
“Sông Mã gầm lên khúc
độc hành”
28. Mai Ngữ
Tưởng chuyện như đùa
hoá ra thật
Biết ông sòng phẳng
tự bao giờ
Cái con thò lò quay
sáu mặt
Vồ hụt mấy lần ông
vẫn trơ
29. Nguyễn Khải
Cha và con và… họ hàng và…
Hết bay mùa thóc lẫn
mùa lạc
Cho nên chiến sĩ
thiếu lương ăn
Họ sống chiến đấu
càng khó khăn
Tháng Ba ở Tây nguyên
đỏ lửa
Tháng tư lại đi xa
hơn nữa
Đường đi ra đảo đường
trong mây
Những người trở về
mấy ai hay
Xung đột mỗi ngày
thêm gay gắt
Muốn làm cách mạng
nhưng lại dát1
30. Hoàng Trung Thông
Đường chúng ta đi
trong gió lửa
Còn mơ chi tới những
cánh buồm
Từ thuở tóc xanh đi
vỡ đất
Đến bạc đầu sỏi đá
chửa thành cơm
31. Chính Hữu
Tấm áo hào hoa bạc gió mưa
Anh thành đồng chí tự
bao giờ
Trăng còn một mảnh
treo đầu súng
Cái ghế quan trường
giết chết thơ.
32. Thanh Tịnh
Bao năm ngậm ngải tìm
trầm
Giã từ quê mẹ xa dòng
Hương giang
Bạc đầu mới biết lạc
đường
Tay không nay lại vẫn
hoàn tay không
Mộng làm giọt nước ôm
sông
Ôm sông chẳng được,
tơ lòng gió bay.
33. Chu Văn
Một con trâu bạc già
nua
Nhờ cơn bão biển thổi
lùa lên mây
Trâu ơi ta bảo trâu
này
Quay về đất mới kéo
cày cho xong.
34. Ngô Tất Tố
Tài ba thằng mõ cỡ chuyên viên
Chia xôi chia thịt
lại chia quyền
Việc làng việc nước
là như vậy
Lộn xộn cho nên phải
tắt đèn.
35. Nam Cao
Anh còn đôi mắt ngây thơ
Sống mòn sao vẫn đợi
chờ tương lai
Thương cho Thị Nở
ngày nay
Kiếm không đủ rượu
làm say Chí Phèo.
36. Xuân Thủy
Xoắn mãi dây tình thơ bật ra
Paris thì thích hơn ở
nhà
Đông y ắt hẳn hơn tây
dược
Xe tải không bằng xe
Vonga
Trên đời kim cương là
quý nhất
Thứ đến tình thương
dân nghèo ta
Em chớ chê anh già
lẩm cẩm
Còn hơn thằng trẻ
lượn Honđa.
37. Lưu Trọng Lư
Em không nghe mùa thu
Mùa thu chỉ có lá
Em không nghe rừng
thu
Rừng mưa to gió cả
Em thích nghe mùa
xuân
Con nai vờ ngơ ngác
Nó ca bài cải lương.
38. Nguyễn Khoa Điềm
Một mặt đường khát
vọng
Cuộc chiến tranh đi
qua
Rồi trở lại ngôi nhà
Cất lên ngọn lửa ấm
Ngủ ngon a Kai ơi
Ngủ ngon a Kai à…
39. Nguyễn Kiên
Anh Keng cưới vợ tháng mười
Những đứa con lại ra
đời tháng năm
Trong làng kháo
chuyện rì rầm
Vụ mùa chưa gặt thóc
đã nằm đày kho.
40. Anh Thơ
Ấy bức tranh quê đẹp một thời
Má hồng đến quá nửa
pha phôi
Bên sông vải chín mùa
tu hú
Khắc khoải kêu chi
suốt một đời.
41. Xuân Thiều
“Đôi vai” thì gánh lập trường
Đôi tay sờ soạng con
đường cuối thôn
Nghe anh kể chuyện
đầu nguồn
Về nhà thấy mất cái
hồn của em.
42. Nguyễn Thị Như Trang
Nhá nhem khoảng sáng trong rừng
Để cho cuộc thế xoay
vần hơn thua
Xác xơ mầu tím hoa
mua
Lửa chân sóng báo mây
mưa suốt ngày.
43. Bùi Đức Ái (Anh Đức)
Chị Tư Hậu đẻ ra anh
Ví như hòn đất nặn
thành đứa con
Biển xa gió dập sóng
dồn
Đất tan thành đất chỉ
còn giấc mơ.
44. Nguyễn Thế Phương
Đi bước nữa rồi đi bước nữa
Phấn son mưa nắng đã
tàn phai
Cái kiếp đào chèo là
vậy đó
Đêm tàn bến cũ chẳng
còn ai.
45. Vũ Trọng Phụng
Đã qua đi một thời giông tố
Qua một thời cơm thầy
cơm cô
Còn để lại những
thằng Xuân tóc đỏ
Vẫn nghênh ngang cho
đến tận bây giờ.
46. Xuân Thiêm
Thơ ông tang tính tang tình
Cây đa bến nước mái
đình vườn dâu
Thân ông mấy lượt lấm
đầu
Miếng mồi danh lợi
mắc câu vẫn thèm.
47. Đào Hồng Cẩm
Bắt đầu từ lão nghị hụt
Cầm dao giết mạng
người
Chị Nhàn phải đi bước
nữa
Lấy đại đội trưởng
của tôi
Cuộc đời mấy phen nổi
gió
Phải đem tổ quốc thề
bồi
Lần này ông ra ứng cử
Chắc hẳn là trúng
nghị viên thôi.
48. Nguyễn Quang Sáng
Ông Năm Hạng trở về đất lửa
Với chiếc lược ngà
vượt Trường sơn
Bỗng mùa gió chướng
vừa nổi dậy
Ông biến thành thằng
nộm hình rơm.
49. Hoàng Văn Bổn
Có những lớp người đi vỡ đất
Mùa mưa không trồng
lúa trồng ngô
Lại gieo hạt bông
hường bông cúc
Trên mảng đất này hoa
héo khô.
50. Phù Thăng
Chuyện kể cho người mẹ nghe
Biển lửa bốc cháy bốn
bề tan hoang
Đứa con nuôi của trung
đoàn
Phá vây xong lại chết
mòn trong vây.
51. Nguyễn Thị Ngọc Tú
Đất làng vừa một tấc
Bao nhiêu người đến
cày
Thóc giống còn mấy
hạt
Đợi mùa sau sẽ hay
52. Vũ Cao
Sớm nay nhấp một chén trà
Bâng khuâng tự hỏi
đâu là núi đôi
Những người cùng làng
với tôi
Muốn sang đèo trúc
muộn rồi đừng sang
53. Phan Tứ
Bên kia biên giới anh sang
Trước giờ nổ súng về
làng làm chi
Mẫn và tôi tính chi
li
Gia đình má Bảy lấy
gì nuôi anh.
54. Nguyễn Huy Tưởng
Anh chẳng còn sống
mãi
Với thủ đô luỹ hoa
Để những người ở lại
Bốn năm sau khóc oà.
55. Thu Bồn
Chim Chơ rao cất cánh ngang trời
Tình như chớp trắng
cháy liên hồi
Đám mây cánh vạc tan
thành nước
Mà đất ba dan vẫn
khát hoài.
56. Bùi Hiển
Sinh ra trong gió cát
Đất Nghệ an khô cằn
Bao nhiêu năm “nằm
vạ”
Trước cửa hội nhà
văn.
57. Võ Huy Tâm
Đem than từ vùng mỏ
Về bán tại thủ đô
Bị đập chiếc cán búa
Hoá ra thằng ngẩn
ngơ.
58. Nông Quốc Chấn
Tưởng anh dọn về làng
xưa
Ngờ đâu về tận thủ đô
nhận nhà
Sướng cái bụng lắm
lắm à
Đêm là đèo gió, ngày
là hồ Tây.
59. Thế Lữ
Với tiếng sáo thiên
thai dìu dặt
Mở ra dòng thơ mới
cho đời
Bỏ rừng già về vườn
bách thú
Con hổ buồn lặng lẽ
trút tàn hơi.
60. Nguyễn Minh Châu
Cửa sông cất tiếng chào đời
Rồi đi ra những vùng
trời khác nhau
Dấu chân người lính
in mau
Qua miền cháy với cỏ
lau bời bời
Đọc lời ai điếu một
thời
Tan phiên chợ Giát
hồn người về đâu?
61. Phạm Huy Thông
Nếu Trương Lương
không thổi địch sông Ô
Liệu Hạng Vũ có lên
ngôi hoàng đế
Nhưng buồn thay đã
đánh mất Ngu Cơ
Đời chẳng còn gì, và
thơ cũng thế.
62. Giang Nam
“Xưa tôi yêu quê hương vì có chim có bướm”
“Có những ngày trốn
học bị đòn roi”
Nay tôi yêu quê hương
về có ô che nắng
Có ghế ngồi viết
những điệu thơ vui.
63. Bằng Việt
Nhen lên một bếp lửa
Mong soi gương mặt
người
Bỗng cơn giông nổi
đến
Mây che một khung
trời
Đất sau mưa sụt lở
Mầu mỡ trôi đi đâu
Còn trơ chiếc guốc
vàng
Trăng mài mòn canh
thâu.
64. Nguyễn Trọng Oánh
Một chút hương thơm trải bốn mùa
Mười năm lăn lội chốn
rừng già
Quay về không chịu ơn
mưa móc
Đất nắng mưa rồi đất
lại khô.
65. Nguyễn Xuân Sanh
Xưa thơ anh viết không người hiểu
“Đáy đĩa mùa đi nhịp
hải hà”
Nay anh chưa viết
người đã hiểu
Sắp sáng thì nghe có
tiếng gà.
66. Thâm Tâm
“Người đi, ờ nhỉ,
người đi thật”
Đi thật nhưng rồi lại
trở về
Nhẹ như hạt bụi, như
hơi rượu
Mà đắm hồn người
trong tái tê.
67. Nguyễn Huy Thiệp
Không có vua thì làm sao có tướng
Nên về hưu vẫn phải
chết tại chiến trường
Kiếm sắc chém bao
nhiêu đầu giặc
Để vàng tôi trong lửa
chịu đau thương.
68. Phùng Quán
Hồn đã vượt Côn đảo
Thân xác ở trong lao
Bởi nghe lời mẹ dặn
Nên suốt đời lao đao.
69. Tố Hữu
Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám
hướng phía trời xa
Chân dép lốp bay vào
vũ trụ
Khi trở về ta lại là
ta
Từ ấy tim tôi ngừng
tiếng hát
Trông về Việt Bắc tít
mù mây
Nhà càng lộng gió thơ
càng nhạt
Máu ở chiến trường,
hoa ở đây.
70. Dương Thu Hương
Tay em cầm bông bần ly
Bờ cây đỏ thắm làm
chi não lòng
Chuyện tình kể trước
lúc rạng đông
Hoàng hôn ảo vọng vẫn
không tới bờ
Thiên đường thì quá
mù mờ
Vĩ nhân tỉnh lẻ vật
vờ bóng ma
Hành trình thơ ấu đã
qua
Hỡi người hàng xóm
còn ta với mình.
71. Hữu Thỉnh
Cùng đoàn quân anh đi tới thành phố
Bị lạc đường về hội
nhà văn
Ờ nhỉ bao giờ quay
trở lại
Với năm anh em trên
một chiếc xe tăng.
72. Trần Bạch Đằng
Ván bài lật ngửa tênh hênh
Con đường thiên lý
gập ghềnh mãi thôi
Thay tên đổi họ mấy
hồi
Vẫn chưa tới được
chân trời mộng mơ
73. Nguyễn Duy
Mẹ và em đang ở đâu
Giữa vùng cát trắng
đêm thâu gió lùa
Ổ rơm teo tóp ngày
mùa
Xác xơ thân lúa vật
vờ thân tôi
Bờ tre kẽo kẹt liên
hồi
Bầu trời vuông với
một ngôi sao dời
Đánh thức tiềm lực
suốt đời
Ai?
Chẳng ai đáp lại lời
của tôi.
74. Nguyễn Mạnh Tuấn
Anh đã đứng trước
biển
Cù lao Chàm kia rồi
Nhưng khoảng cách còn
lại
Xa vời lắm anh ơi.
75. Trần Mạnh Hảo
Ôi thằng Trần Mạnh Hảo
Đi phỏng vấn Chí Phèo
Lão chết từ tám hoánh
Đời mày vẫn gieo neo
Còn cái lão Bá Kiến
Đục bản in thơ mày
Bao giờ mày say rượu
Bao giờ mày ra tay
76. Hoàng Cầm
Em ơi buồn làm chi
Em không buồn sao
được
Quan họ đã vào hợp
tác
Đông hồ gà lợn nuôi
chung
Bên kia sông Đuống em
trông
Tìm đâu thấy lá diêu
bông hỡi chàng.
77. Lê Lựu
Người về đồng cói người ơi
Phía ấy mặt trời mọc
lại
Một thời xa vắng, xa
rồi
Phủ Khoái xin tương
oai oái
Ở đời gặp may hơn
khôn
Nào ai dám ghen dám
cãi
Người đã đi Mỹ hai
lần
Biết rồi, khổ lắm,
nói mãi1
78. Vũ Quần Phương
Anh đứng thành tro…
em có biết
Hôm qua lại gặp
chuyến xe bò
Vẫn anh đi trong vầng
trăng cũ
Áo đỏ bên cầu đợi
ngẩn ngơ.
79. Hữu Loan
Ôi màu tím hoa sim
Nhuốm tím cuộc đời
dài đến thế
Cho đến khi tóc bạc
da mồi
Chưa làm được nhà
còn bận làm người
Ngoảnh lại ba mươi
năm
Tìm mãi nghìn
chiều hoang
biền biệt
80. Lý Văn Sâm
Kiên Trì dấn bước đường chinh chiến
Nửa gánh giang hồ nửa
ái ân
Ngàn sau sông Dịch
còn tê lạnh
Tráng sĩ có về với
bến xuân.
81. Tản Đà
Văn chương thuở ấy
như bèo
Thương cụ gồng gánh
trèo leo tận trời
Giấc mộng lớn đã bốc
hơi
Giộc mộng con suốt
một thời bơ vơ
Tiếc chi cụ sống tới
giờ
Chợ trời nhan nhản
tha hồ bán văn.
82. Lưu Quang Vũ
Cũng muốn tin vào hoa
hồng
Tin vào điều không
thể mất
Cả tôi và cả chúng ta
Đứng trong đầm lầy mà
hát
Ông không phải là bố
tôi
Con chim sâm cầm đã
chết
Ông không phải là bố
tôi
Con chim sâm cầm ai
giết1
83. Hà Minh Tuân
Bốn mươi tuổi mới vào đời
Ăn đòn hội chợ tơi
bời xác xơ
Giữa hai trận tuyến
ngu ngơ
Trong lòng Hà nội bây
giờ ở đâu?
84. Minh Huệ
Vỡ lòng câu thơ viết
Mời bác ngủ bác ơi
Đêm nay bác không ngủ
Nhà thơ ngủ lâu rồi
85. Văn Cao
Thiên thai – từ giã
về dương thế
Nhắc chi ngày ấy buồn
lòng ta
Sân đình ngất ngưởng
ngôi tiên chỉ
Uống rượu say rồi hát
quốc ca
86. Ma Văn Kháng
Khi xuôi anh mang
theo
Đồng bạc trắng hoa
xòe
Với một mối tình sơn
cước
Mùa lá rụng trong
vườn
Năm này qua năm khác
Đám cưới vẫn không
thành
Vì giấy gía thú chửa
làm xong
87. Vũ Bão
Sắp cưới bỗng có
thằng phá đám
Nên ông chửi bố chúng
mày lên
Đàu chày đít thớt đâu
còn ngán
Không viết văn thì
ông viết phim.
88. Hồ Dzếnh
Biết mấy mươi chiều
khói thuốc bay
Quê nhà vẫn lẩn khuất
trong mây
Lui về ký ức chân
trời cũ
Uống chén rượu buồn
không dám say.
89. Hoàng Phủ Ngọc Tường
Trăm năm ông phủ… Ngọc Tường ơi
Cái nợ lên xanh rũ
sạch rồi
Cửa Việt tung hoành
con sóng vỗ
Sông Hương lặng lẽ
chiếc thuyền trôi
Sử thi thành cổ buồn
nao dạ
Chuyện mới Đông hà
tái nhợt môi
Từ biệt chốn xưa
nhiều ánh lửa
Trăm năm ông phủ…
Ngọc Tường ơi!
90. Phạm Thị Hoài
Dẫu chín bỏ làm mười
hay mười hai cũng mặc
Chẳng ai dung thiên
số đất này
Dụ đồng đội vào trong
mê lộ
Rồi bỏ đi du hí đến
năm ngày.
91. Thanh Thảo
Giặc dã yên rồi về
xoay khối vuông Ru
bích
Đoán vận rủi may
Thưa quý vị, xin mời1
Xanh tím trắng đỏ
vàng đều rõ hết
Ta cùng vào cuộc
chơi.
Không gian bốn năm
chiều,
thời gian xin tuỳ
thích
Đảo lộn tùng phèo
thật gỉa trắng đen
“Tôi như cục xà bông
thứ thiệt”
Cứ đổ rượu vào
hình quý vị sẽ hiện
lên.
92. Trần Dần
Người người lớp lớp
xông ra trận
Cờ đỏ
mưa sa
suốt dặm dài
Mở đợt phá khẩu
tiến lên
nhất định thắng
Lô cốt mấy tầng
đè nát vai
Dẫu sông núi cỏ cây
làm chứng
Hồn vẫn treo trên
Vọng hải đài.
93. Khương Hữu Dựng
Ba lô trên vai từ đêm
mười chín
“Một tiếng chim kêu
sáng cả rừng”
Thì cứ khắc đi rồi
khắc đến
Sao còn ngồi đấy cụ
già Khương?
94. Bùi Minh Quốc
Tuổi hai mươi xung phong lên Tây bắc
Nguyện hi sinh chiến
đấu dưới cờ
Lại xung phong vào
Nam đánh giặc
Với bà cụ đào hầm đầu
bạc phơ phơ
Hoà bình rồi tiến lên
đổi mới
Bất ngờ ngã ngựa chốn
non cao
Dẫu thân thể mang đày
thương tích
Thì cuộc đời vẫn đẹp
sao
Tình yêu vẫn đẹp sao1
95. Ý Nhi
Trái tim với nỗi nhớ ai
Như cây trong phố
đứng hoài chờ trăng
Như người đàn bà ngồi
đan
Sợi dọc thì rối, sợi
ngang thì chùng.
96. Yến Lan
Ra đi từ bến My Lăng
Bao năm dấu kín ánh
trăng trong lòng
Tuổi già về lại bến
sông
Trăng xưa đã lớn,
phải chong đèn dầu
97. Phan Thị Thanh Nhàn
Dấu một chòm thơ trong chiếc khăn tay
Em hăm hở đi tìm
người trao tặng
Những kẻ phong lưu,
những tên du đãng
Mấy ai biết hương
thầm của cô gái xóm đê.
98. Trần Đăng Khoa
Chú dế góc sân hồn nhiên ca hát
Hát thành thơ như
nước triều lên
Khi khôn lớn lại hồn
nhiên đi giữa
“Biển một bên và em
một bên”.
99. Hoàng Lại Giang
Người đàn bà một thời tôi ao ước
Trên vành đai Mỹ
những năm xưa
Tình yêu đã lụi tàn
cùng ký ức
Nhưng còn đây tàn lụi
đến bao giờ?
100. Xuân Sách (Tự hoạ)
Cô giáo làng tôi đã
chết rồi
Một đêm ra trận đất
bom vùi
Xót xa đình Bảng
người du kích
Đau đớn Bạch đằng lũ
trẻ côi
Đường tới chiến công
gân cốt mỏi
Lối vào lửa sởn tóc
da mồi
Mặt trời ảm đạm quê
hương cũ
Ở một cụm đường rách
tả tơi.
Nguồn: Theo bản in của Nhà xuất bản Văn học, in tại nhà in
Bộ Nội Vụ tháng 3 năm 1992, bản
đăng trên talawas có sự đồng ý của tác giả.
Tâm sự của Xuân Sách
Những bài thơ
chân dung các nhà văn của tôi ra đời trong trường hợp rất tình cờ. Hôi ấy bước
vào thập kỷ 60, tôi đang độ tuổi và mới từ đơn vị được chuyển về Tạp chí Văn
nghệ quân đội ở ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế, Hà nội. Ngoài công việc của toà soạn
tờ báo ra thời gian của chúng tôi dành nhiều cho học tập chính trị. Những vấn
đề thời sự trong nước, thế giới, những đường lối, chỉ thị, nghị quyết, những vấn
đề tư tưởng lâu dài và trước mắt… đều phải học tập nghiêm túc, có bài bản. Học
một ngày, hai ngày, có khi cả tuần, cả tháng. Lên lớp, thảo luận, kiểm điểm,
làm sao sau mỗi đợt học, nhận thức và tư tưởng từng người phải được nâng cao
lên một bước. Những buổi lên lớp tập trung tại hội trường gồm hàng ngàn sĩ
quan, anh em văn nghệ, các nhà văn, các hoạ sĩ, nhạc sĩ… thường ngồi lập trung
với nhau ở những hàng ghế cuối hội trường thành một “xóm” văn nghệ. Để chống
lại sự mệt mỏi phải nghe giảng về hai phe, bốn mâu thuẫn, về ba dòng thác cách
mạng, về kiên trì, tăng cường, nỗ lực, quyết tâm… mấy anh văn nghệ vốn quen
thói tự do thường rì rầm với nhau những câu chuyện tào lao hoặc che kín cho
nhau để hút một hơi thuốc lá trộm, nuối vội khói, nhiều khi ho sặc sụa. Nhưng
rồi những chuyện đó cũng bị phát hiện, bị nhắc nhở phê bình. Vậy phải thay đổi
chuyển sang “bút đàm”.
Vào năm 1962 có đợt
học tập quan trọng, học nghị quyết 9, nghị quyết chống xét lại, chống tư tưởng
hoà bình chủ nghĩa, và dĩ nhiên văn nghệ là một đối tượng cần chú ý trong đợt
học này. Hội trường tập trung đông, trời nắng, hơi nóng từ cái sân láng xi măng
hắt lên như thiêu như đất. Quân đội đang tiến lên chính quy hiện đại, ăn mặc
phải tề chỉnh đầy dủ cân đai bối tử, đi giầy da, những đôi giẫy cao cổ nặng như
cùm. Bọn tôi trừ vài trường hợp như Vũ Cao, Nguyễn Khải có đôi chân quá khổ, có
cớ chưa có giầy đúng số để đi dép, nhưng cũng là những đôi dép có quai hậu,
ngồi học cũng không được tụt quai. Nhân đây tôi xin nói thêm về Vũ Cao. Ông là
người biệt danh “quanh năm đi chân đất”, ở nhà số 4 các phòng sàn ván đều được
lau bóng để đánh trần nằm xuống mà viết. Quy định ai vào phòng phải bỏ giầy dép
trừ… Vũ Cao, bởi để ông đi dép vào phòng còn sạch hơn đi chân trần. Giờ đây
ngồi học được ưu tiêu đi dép vẫn là nỗi cực khổ đối với ông.
Trong buổi lên lớp
căng thẳng như thế, Nguyễn Trọng Oánh xé vỏ bao thuốc lá Tam Đảo viết một bài
thơ chữ Hán trao cho tôi. Ở Văn nghệ quân đội, Oánh được gọi là ông Đồ Nghệ
giỏi chữ Hán và tôi được gọi là Đồ Thanh bởi cũng vỏ vẽ đôi ba chữ thánh hiền.
Oánh bảo tôi dịch bài thơ Oánh viết vịnh Xuân Thiều. Xuân Thiều cũng ở lứa tuổi
chúng tôi nhưng trông già dặn vì cái đầu hói, tóc lơ thơ. Con dường văn chương
mới bước vào còn lận đận. Mới in được tập truyện ngắn đầu tay “Đôi Vai”, tập
tiểu thuyết “chuyển vùng” viết về cuộc chiến đấu chống Pháp ở Bình Trị Thiên mà
Thiều tham dự, đã sửa chữa nhiều lần, đưa qua nhiều nhà xuất bản chưa “nhà” nào
chịu in. Tôi thấy bài thơ Oánh viết rất là hay và dịch:
Văn nghiệp tiền trình khả điếu quân
Mao đầu tận lạc tự
mao luân
Lưỡng kiên mai hếu
phong trần lý
Chuyển địa hà thời
chuyển đắc ngân
Dịch nghĩa:
Con dùng văn nghiệp
khá thương cho ông
Lông đầu ông đã rụng
trơ trụi
Đôi vai lầm lủi trên
con đường gió bụi
Chuyển vùng đến bao
giờ thì chuyển thành tiền được?
Dịch thơ:
Con đường văn nghiệp thương ông
Lông đầu rụng hết thư
lông cái gầu
Đôi vai gánh mãi càng
đau
Chuyển vùng nào nữa
làm sao thành tiền?
Dịch song tôi chuyển bài thơ cho anh em đọc. Oánh tỉnh bơ
với bộ mặt lạnh lùng cố hữu còn mọi người phải nén cười cho khỏi bật thành
tiếng. Nguyễn Minh Châu gục xuống bàn kìm nén đến nôi mặt đỏ bừng và nước mắt
dàn dụa.
Tự nhiên trong đầu
tôi lóe lên cái ý nghĩ mà người ta thường gọi là “tia chớp”. Thơ chân dung!
Trong bài thơ của Oánh phác hoạ một Xuân Thiều với hình dáng và văn nghiệp bằng
cách dùng nghĩa kép của tên tác phẩm: “Đôi Vai” “Chuyển Vùng”. Và sau chốc lát,
tiếp tục trò đùa của Oánh tôi viết bài thơ về Hồ Phương, đang ngồi cạnh tôi, và
bài thơ số một về chân dung các.. nhà văn ra đời. Hồi đó Hồ Phương đã là tác
giả in nhiều tác phẩm, đã được một số giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn
học. Tôi dùng tên các tập truyện của anh: “Trên biển lớn” “Xóm mới” “Cỏ non” và
tên cái truyện ngắn đầu tay vẫn được nhắc đến: “Thư nhà”. Tôi viết bài thơ ra
mẫu giấy:
Trên biển lớn lênh đênh sóng nước
Ngó trông về xóm mới
khuất xa
Cỏ non nay chắc đã
già
Buồn tênh lại giở thư
nhà ra xem
Tôi đưa bài thơ cho
Nguyễn Khải.
Anh đọc xong trên mặt
có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đọi, anh bỏ
bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra
ngồi quanh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương đọc. Mặt
Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi run. Nguyễn Khải nói như cách sỗ
sàng của anh:
-Thằng này (chỉ tôi)
ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi!
Tôi hơi hoảng, nghĩ
rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa
thông thường bài thơ còn chạm vào tính cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà
văn thì có gì quan trọng hơn là tính cách và tác phẩm. Bài thơ ngụ ý Hồ Phương
có viết nhiều chăng nữa văn không vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ: buồn
tênh lại giở thư nhà ra xem…”
Trước đây khi còn là
lính ở địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đấy
là những con người dị biệt rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến dường như họ là
một siêu tầng lớp trong xã hội. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, lời nói của họ đều
có thể trở thành giai thoại, và cả tật xấu nữa, dường như cũng đứng ngoài vòng
phán xét thông thường. Tóm lại đó là một thế giới đầy sức hấp dẫn đối với người
say mê văn học và tập tễnh nuôi mộng viết văn như tôi. Khi tôi được về Hà nội
vào một cơ quan văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta quân đội có một vị
trí đặc biệt trong xã hội kể cả lĩnh vực văn chương) tôi bắt đầu đi vào cái thế
giới mà trước kia tôi mơ ước. Điều tôi nhận ra là ngoài cái phần tôi hiểu trước
đây thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đó là cái mặt đời thường,
cái mặt rất chúng sinh và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm
và tính cách nhà văn. Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa nếu
“vẽ” được chính xác những bức chân dung đó, thì bộ mặt xã hội của thời dại họ
đang sống cũng qua đó mà hiện lên. Có thể, tôi nghĩ, không có tầng lớp nào hơn
các nhà văn thể hiện rõ nhất bộ mặt tinh thần của dân tộc qua từng giai đoạn.
Những điều này tôi nhận ra sau một thời gian dài khi những bài thơ chân dunglần
lượt được ra đời, được phổ biến một cách không chính thức nhưng sâu rộng và dai
dẳng, vượt cả sự mong muốn của tôi. Cũng chính các nhà văn giúp tôi nhiều trong
sáng tác cũng như phổ biến các bài thơ. Bởi khi nhận định về tính cách con
người, tính cách các nhà văn thì không ai sắc sảo bằng các nhà văn. Người giúp
tôi nhiều nhất là anh Nguyễn Khải. Anh có mối quan hệ rộng rãi trong giới, có
lối nhận xét người rất sắc sảo, chính xác dù có đôi lúc cực đoan. Anh không mấy
thích thơ, nhưng anh lại thích những nhà văn chân dung. Anh có nói đại ý là các
nhà văn chúng ta quen đánh giá nhận xét mọi tầng lớp người trong xã hội thì
cũng cần tự đánh giá mình, cũng đều có cái tốt cái xấu như ai. Về sau thêm anh
Vương Trí Nhàn về Văn nghệ quân đội. Nhà phê bình văn học trẻ tuổi này hết sức
cổ suý tôi, đôi khi anh còn thách đố. Chúng tôi thường ngồi trong cái phòng
“toilet” khoảng ba mét vuông, do hệ thống bơm nước lên tầng hai bị hỏng nên cái
phòng vệ sinh đó biến thành phòng văn. Nó được ốp gạch men trắng bóng, lau sạch
ngồi thật mát và thoải mái kín đáo. Có những hôm Nhàn mua sẵn vài ba điếu thuốc
lá lẻ, vài cái kẹo lạc, một ấm trà ngon rồi thách thức tôi viết ngay tại chỗ.
Và đã có nhiều bài thơ ra đời như thế. Nhàn nói: “Những bài thơ này ông Sách
viết ra khi có quỷ ám vào ông ấy”. Bởi Nhàn đánh giá tôi có một giọng điệu khác
hẳn trong những sáng tác không phải thơ chân dung. Nhàn là người rất thuộc thơ,
và khi bài thơ tôi vừa làm xong thường anh là người phổ biến rộng rãi. Một số
anh em trẻ khác như các anh Định Nguyễn, Trần Hoàng Bách thường đem những bài
thơ đi phổ biến để được chiêu đãi bia hơi. Có thể nói đó là “nhuận bút” đầu
tiên, nhưng không thuộc về người sáng tác mà thuộc về người phát hành.
Tất nhiên những bài
thơ đó được phổ biến rộng trong giới. Lúc dầu còn kín đáo, nhưng dần dần thành
công khai và nhất là thành một “tiết mục” không thể thiếu trong những liên hoan
của anh em văn nghệ. Có một buổi cũng khá đông đủ các nhà văn, khi vào tiệc
rượu, mọi người yêu cầu tôi đọc thơ về các nhà văn có mặt, trong không khí như
vậy thì dù các anh các chị ấy có giận cũng cười xoà làm vui. Riêng tôi thấy
mình làm được trò vui cho mọi người cũng hay chứ sao. Tôi nhớ sau buổi vui, anh
Nguyễn Đình Thi có nói đại ý nên đem cái tài đó làm những việc có ích hơn là
châm chọc nhau. Ngay đó một anh ngồi bên cạnh rỉ tai tôi: “châm chọc cũng cần
có tài và có ích lắm chứ “
Những bài thơ cũng
được lan truyền sang các giới khác. Hồi đó tướng Lê Quang Đạo là phó chủ nhiệm
Tổng cục chính trị, cấp trên của giới văn nghệ trong quân đội, ông rất thích
những bài thơ chân dung, thường trong giờ nghỉ những buổi họp với giới văn nghệ
ông đề nghị đọc cho ông nghe. Sự thích thú tuy có tính cách cá nhân nhưng rất
hay cho tôi. Tôi cũng nhận được nhiều phản ứng khác nhau, có khi khen quá lời,
có khi bực tức. Tôi kể ra vài trường hợp đặc biệt. Khi tôi đã tìm hiểu được những
ứng xử những lính cách của các nhà văn, ngoài những tác phẩm mà tôi thường
ngưỡng mộ tôi cứ băn khoăn tự hỏi: “Sao thế nhỉ? Với bề dày tác phẩm thư thế,
với vị trí trong xã hội như thế, trong lòng ngườí đọc như thế, sao họ còn ham
muốn những thứ phù phiếm đến thế một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước
ngoài… Mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, phải dối trá và nhất là phải sợ hãi”.
Một lần trên báo đăng một bài thơ dài của một nhà thơ có tên tuổi viết theo
thời tiết chính trị, quay ngược lại với những điều vừa viết chưa lâu, Nguyễn
Khải chỉ bài thơ nói với tôi: “Rất tiếc một tài năng lỡ tàu!”
Tôi không nghĩ mình
đứng ra ngoài cuộc để phán xét, muốn làm cặp mắl thứ hai trong một bài thơ để
tự bạch, tự cảm thông với mình và cũng tự giận mình. Tôi vốn yêu thích và kính
phục tài thơ Chế Lan Viên, nhưng bài thơ tôi viết về ông lại nói khía cạnh
khác. Mỗi lần gặp lại tôi ông lại tỏ ra rất thân thiện. Điều đó làm cho tôi bối
rối, phải chăng ông đã hiểu điều gì đó về ông về tôi. Lúc ông Hoài Thanh già
yếu phải vào bệnh viện, tôi đến thăm ông. Ông không giận tôi nữa, còn cho tôi
là người có tình và ông thấy những gì tôi viết về ông có phần đúng. Ông đề nghị
chữa một chữ trong bài thơ. Khi ông mất, tôi đi viếng, nhìn khuôn mặt ông qua
lấm kính, và các con ông oà khóc, tôi bỗng cảm thấy mình như người có tội.
Một lần gặp Xuân Diệu
trong quán bia hơi, tôi nâng cốc bia chúc mừng ông vừa được bầu làm viện sĩ của
Viện hàn lâm nghệ thuật nước CHDC Đức, ông chạm cốc:
- Chúc mừng họ Ngô
nhà ta, những bài thơ của cậu đi vào cõi bất tử.
Điều tôi không ngờ là
cụ Đặng Thai Mai cho người gọi tôi đến nhà bảo tôi đọc thơ chân dung cho cụ
nghe. Con người nổi tiếng uyên bác thâm trầm ấy ngồi đặt cầm lên đầu gối cười
khục khục. Đột ngột cụ ngước cặp mắt tinh anh lên nhìn tôi: “Thế còn Đặng Thai
Mai?” Tôi lúng túng: “Viết về bác rất khó, cháu đang suy nghĩ thưa bác”. Dường
như ông cụ không tin lời tôi. Ít lâu sau cụ lại gọi đến: “Anh viết về tôi rồi
chứ?” Trước tôi chỉ nghĩ cụ không để ý đến cái trò chơi chữ ngông nghênh này, hoá
ra cụ quan tâm thật sự khiến tôi vừa cảm động vùa thích thú. Nhưng biết sao
được, viết về cụ thật là khó và đến nay tôi vẫn chưa viết được.
Còn cụ Nguyễn Tuân,
con người vốn thích đùa một cách… cao sang và thâm trầm thích ăn nem rán nóng
bỏng thì gắp lên đặt xuống cái nem nghe thơ và phán: “Hóm, thằng này hóm”. Nói
về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của
một thời. Câu thơ: “Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành
cơm” đâu chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết tôi nghĩ, nhà văn là đại
diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã dành là khó ai vượt được thời
đại mình đang sống, không dễ nói hết nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng
cũng thật đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, cong lưng quỳ
gối trước quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết,
nếu có nói quá cũng dễ hiểu, cái con “quỷ ám” nếu có thì cũng là ảnh hưởng của
những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời
cũng như nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗ đau.
Những bài thơ chân
dung đã có cuộc sống riêng của không phải kỳ lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lưu
truyền đến đã ba mươi năm. Đã có nhiều bài “khảo dị” nhiều bài ngoài luồng cũng
được gán cho tác giả. Bây giờ in ra cũng coi như một sự đính chính. Nó cũng là
“một cái gì đó” như có người đã nói nên mới tại được nếu nó có ích thì tác giả
cũng lấy làm mãn nguyện.
Ngày Xuân năm Nhâm Thân
Số phận của “ Chân dung nhà văn “
Xuân Sách, người qua
đời tại Hà Nội tối 2-6, đạt thành tựu trong cả văn xuôi và thơ trữ tình nhưng
nổi tiếng nhất với tập “ Chân dung nhà văn “ .
Đó là 99 ký họa nhà
văn (cùng một bài tự họa) lột tả thần thái của nhiều trong số tác giả quan
trọng nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại.
Xuân Sách dùng chính
các tên bài hay câu thơ, tác phẩm văn , kịch nổi tiếng nhất của các đồng nghiệp
để dựng chân dung của họ.
Đường đi của tác phẩm
Tập thơ này
được in năm 1992 và gây ra tranh cãi rất lớn.
Nhà văn Hoàng Lại
Giang, khi đó là Trưởng chi nhánh NXB văn học ở TP. HCM, kể lại với tư cách
người tham gia xuất bản tập thơ.
“ Chân dung Nhà văn
bắt đầu từ băng ghi âm của Tướng Trần Độ. Anh Trần Độ về Vũng Tàu gặp và muốn
nghe chân dung qua giọng đọc của anh Xuân sách. Ông ghi Sau khi được nghe cuốn
băng, ông Hoàng Lại Giang đặt vấn đề với Xuân Sách là sẽ cho in thành tác phẩm. Ông Giang lại
nói chuyện với ông Lữ Huy Nguyên, Giám đốc NXB Văn học, và cuốn sách được in xong chỉ trong thời
gian một tuần, với số lượng 3000 bản.
Ông Hoàng Lại Giang
kể tiếp: “In xong thì phản ứng của nhà văn rất lớn, và đấy là điều tôi không
ngờ đến.”
“Những nhà văn lớn có
bản lĩnh, họ chịu đựng nổi, im lặng. Nhưng những nhà văn tầm tầm, lồng lộn, rất gay gắt yêu cầu Bộ Văn
hóa kiểm điểm và thu hồi.”
Phần thơ mô tả các
quan chức trong giới văn nghệ Việt Nam từ ông Tố Hữu đến Chế Lan Viên, Nguyễn
Đình Thi đã làm dư luận chú ý.
Bài về Lưu Quang Vũ
đặt cả câu hỏi cái chết bất ngờ khi còn trẻ của đạo diễn sân khấu: “Ông không
phải là bố tôi, Con chim sâm cầm ai giết! “
Một cuộc họp của Bộ
Văn hóa diễn ra, với năm đại diện: Ba thứ trưởng (Phan Hiền, Huy Cận, và Nông
Quốc Chấn), đại diện Hội Nhà văn Vũ Tú Nam, cùng Giám đốc NXB Văn học Lữ Huy Nguyên.
Buổi tối trước ngày
họp, ông Giang nói với ông Nguyên rằng việc xuất bản cuốn sách là trách nhiệm
của ông, thì để ông “chịu tội”. Ông Nguyên không chịu: “Tôi không thể làm như
thế.”
Dừng lại một lúc, ông
Nguyên nói: “Tôi biết ông thân với anh Huy Cận và anh Huy Cận cũng rất quý ông.
Nếu ông thuyết phục anh Huy Cận ủng hộ thì chúng ta sẽ thoát được khi bên ta
được ba phiếu bên chống ta còn lại hai phiếu”.
Ông Giang gọi điện
thoại ra cho nhà thơ Huy Cận. “Anh rầy tôi cũng dữ, nhưng cuối cùng anh bảo
thôi được, để anh tìm cách giúp.”
Kết quả tại phiên
họp, có ba người không phản ứng mạnh, “chiều lòng” Hội Nhà văn bằng quyết định
niêm phong số bản in còn lại, nhưng không thu hồi.
Nhân cách nhà văn
Tập thơ đã lan truyền
rộng rãi trong dân gian từ đó tới nay.
Ông Nguyễn Hòa, chủ
biên trang mạng Văn học Việt và là bạn thân của ông Xuân sách, đánh giá với tập
Chân dung nhà văn , ông Xuân Sách đã chứng tỏ sự trung thực của một người cầm
bút.
“Anh ấy rất can đảm
khi đụng đến các lãnh đạo văn nghệ. Anh cho người ta thấy chân dung của Hoài
Thanh, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư, Tố Hữu…Qua tập thơ, anh thể hiện đúng sự
thẳng thắn của người cầm bút.”
Từ Hà Nội, nhà thơ
Nguyễn Trọng Tạo nói ông là người rất “hóm hỉnh và giàu tính tự trào”.
“Tính tự trào của thơ
Xuân sách đặc biệt bộc lộ qua tập Chân dung Nhà văn. Ông đã nắm bắt tính cách
các nhà văn rất sắc sảo và tinh tế.”
Theo ông Nguyễn Trọng
Tạo, Xuân Sách có công lớn khi ông “tạo được một dòng mạch khiến người ta phải
chú ý” trong lối thơ tự vịnh, tự trào.
Nhà văn Đa Linh
(Nguyễn Đức Hùng), phó giám đốc nhà xuất bản Đà Nẵng, kể “anh em nhà văn gặp
nhau, rất hay trao đổi về tác phẩm này” và theo ông, rất khó có ai khác làm
được như Xuân sách .
Trong mắt ông Nguyễn
Hòa, thể loại khắc họa chân dung nhà văn không thiếu người viết, nhưng thành
tựu không nhiều.
“Thường thường họ chỉ
kể vài sự kiện quen thân với nhau. Nếu giới thiệu chung chung về nhân vật thì
bài ấy đạt, nhưng sâu hơn thì còn nhạt nhòa.”
Ông Hòa nói có hai lý
do khiến thể loại chân dung văn nghệ sĩ, dù là bằng thơ hay văn xuôi, khó phát
triển là vì không khí xã hội Việt Nam và quan hệ giữa người trong giới với
nhau.
“Nhận định chưa nói
ra, người ta đã bảo nó là sai lạc, thế này thế khác, thì thật khó. Ở đây, anh
Phạm Lưu Vũ có viết một loạt bài như Xuân Sách , trong đó có một bài rất hay về
Hữu Thỉnh. Có một số anh em cũng viết đấy, nhưng chỉ truyền miệng hay viết tay
cho nhau. Đưa ra thì phức tạp lắm.”
Nhà thơ Nguyễn Trọng
Tạo kết luận: “Dòng thơ chân dung nhà văn có lẽ sẽ không phát triển nhiều. Một
người khác làm cả một tập thơ, tiếp tục Xuân Sách, hay có thể nổi danh hơn Xuân
Sách , chưa có.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét