Thứ Ba, 30 tháng 6, 2015

Núi đôi - VŨ CAO

Vũ Cao



Bảy năm về trước em mười bảy 
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng 
Xuân Dục, Đoài Đông hai cánh lúa 
Bữa thì anh tới bữa em sang. 

Lối ta đi giữa hai sườn núi 
Đôi ngọn nên làng gọi núi Đôi 
Em vẫn đùa anh sao khéo thế 
Núi chồng, núi vợ đứng song đôi. 






Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới 
Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau 
Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn 
Ai ngờ từ đó mất tin nhau. 


Anh vào bộ đội lên Đông Bắc 
Chiến đấu quên mình năm lại năm 
Mỗi bận dân công về lại hỏi 
Ai người Xuân Dục Núi Đôi chăng. 

Anh nghĩ quê ta giặc chiếm rồi 
Trăm nghìn căm uất bao giờ nguôi 
Mỗi tin súng nổ vùng đai địch 
Sương trắng người đi lại nhớ người. 

Đồng đội có nhau thường nhắc nhở 
Trung du làng nước vẫn chờ trông 
Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm 
Em vẫn đi về những bến sông. 

Náo nức bao nhiêu ngày trở lại 
Lệnh trên ngừng bắn anh về xuôi 
Hành quân qua tắt đường sang huyện 
Anh nhớ thăm nhà thăm Núi Đôi. 

Mới đến đầu ao tin sét đánh 
Giặc giết em rồi, dưới gốc thông 
Giữa đêm bộ đội vây đồn Thứa 
Em sống trung thành chết thuỷ chung. 

Anh ngước nhìn lên hai dốc núi 
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen 
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói 
Núi vẫn Đôi mà anh mất em. 

Dân chợ Phù Linh ai cũng bảo 
Em còn trẻ lắm, nhất làng trong 
Mấy năm cô ấy làm du kích 
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng. 

Từ núi qua thôn đường nghẽn lối 
Xuân Dục Đoài Đông cỏ ngút đầy 
Sân biến thành ao nhà đổ chái 
Ngổn ngang bờ bụi cánh dơi bay. 

Cha mẹ dìu nhau về nhận đất 
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau 
Nứa gianh nửa mái lều che tạm 
Sương trắng khuấy dần chuyện xót đau. 

Anh nghe có tiếng người qua chợ 
Ta gắng mùa sau lúa sẽ nhiều 
Ruộng thấm mồ hôi từng nhát cuốc 
Làng ta rồi đẹp biết bao nhiêu. 

Nhưng núi còn kia anh vẫn nhớ 
Oán thù còn đó anh còn đây 
Ở đâu cô gái làng Xuân Dục 
Đã chết vì dân giữa đất này? 

Ai viết tên em thành liệt sĩ 
Bên những hàng bia trắng giữa đồng 
Nhớ nhau anh gọi em, đồng chí 
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng. 

Anh đi bộ đội sao trên mũ 
Mãi mãi là sao sáng dẫn đường 
Em sẽ là hoa trên đỉnh núi 
Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.



Bình bài thơ Núi đôi

Bài thơ là nỗi xúc động chân thực của tác giả về một câu chuyện có thật ở vùng Xuân Dục trong kháng chiến chống Pháp. Giọng thơ tự sự đậm đà phong vị dân gian làm đẹp thêm mối tình kháng chiến, đồng thời tạo xúc động trước sự hy sinh của người con gái anh dũng.


Mối tình nên thơ gắn với hoài niệm về thời đẹp nhất của tuổi thanh xuân:

Bảy năm về trước em mười bảy
Anh mới đôi mươi trẻ nhất làng

Tác giả dẫn dắt vào không gian trong veo hương đồng nội, với những địa danh thân thương gắn kết đôi bạn trẻ: Xuân Dục, Đoài Đông, Núi Đôi…giản dị và tự nhiên tạo thành thương nhớ. Tình người, tình đất, tình quê lồng vào nhau:

Em vẫn đùa anh sao khéo thế
Núi chồng núi vợ đứng song đôi

Câu chuyện tình hết sức riêng tư, chân thật đã được gắn vào với hoàn cảnh quê hương ngày giặc chiếm đã đan cài vào đó bao tâm trạng uất nghẹn căm hờn và lo lắng bồn chồn của người dân núi Đôi. Cảm xúc này từng được diễn tả trong bài Đất Nước (1955) của Nguyễn Đình Thi:

Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

Từ tâm trạng chàng trai trong bài thơ, ta thêm hiểu vẻ đẹp tâm hồn anh bộ đội trong kháng chiến chống Pháp luôn thắm đượm ân tình với quê hương, người thân. Tâm hồn người chiến sĩ luôn tồn tại một không gian hoài niệm, nhung nhớ đến cháy lòng – khơi lên tình cảm yêu thương và căm hờn trong lòng chiến sĩ, làm rõ vẻ đẹp giàu chất nhân văn. Lời dẫn chuyện của Vũ Cao tái hiện nguyên vẹn không khí những ngày kháng chiến, đánh thức bao cảm xúc của một thời bi hùng mà cũng ắp tràn thương nhớ của bao người. Sự hiện diện thường trực của hình tượng núi Đôi xuyên suốt những ngày chiến đấu là cách cắt nghĩa trọn vẹn ân tình với quê hương và thổi bùng ngọn lửa tình yêu mãnh liệt với cô gái Xuân Dục. Bao tâm trạng được diễn tả: khắc khoải ngóng đợi, “trăm nghìn căm uất”, náo nức ngày trở lại. Tự thân những lời thơ đã làm đẹp thêm bao nhiêu bóng hình người yêu trong tâm tưởng người chiến sĩ:

Núi Đôi bốt dựng kề ba xóm
Em vẫn đi về những bến sông?

Chính vì vậy mà nỗi đau xót sẽ làm người đọc càng day dứt, như một sự tích tụ để vỡ oà trước sự mất mát. Hơn bao giờ hết, người đọc nhận ra tội ác của kẻ thù một cách cụ thể đến từng số phận: bắt đầu từ sự xuất hiện của chúng là một dự cảm mơ hồ, tiếc nuối:

Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn
Đâu ngờ từ đó mất tin nhau

để rồi trở thành sự ngóng đợi thắc thỏm: sương trắng người đi lại nhớ người. Mong đợi cháy bỏng đến khi thành hiện thực thì lại phải đối mặt với nỗi đau lớn nhất “giặc giết em rồi, dưới gốc thông”.

Nỗi đau vụt đến quặn xé đã được diễn tả xúc động:
A nh ngước nhìn lên hai dốc núi
Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen
Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói
Núi vẫn đôi mà anh mất em!

Hình ảnh kỷ niệm yêu thương đã vụt biến thành chứng tích đau thương, nỗi đau rất thật ấy không của riêng ai bởi không chỉ là sự mất mát của anh mà là của cả quê hương, bởi “em sống trung thành, chết thủy chung”. Đó không hề là cảm giác bi lụy mà mang tính chất bi kịch, giúp người đọc ý thức được giá trị của chiến thắng. Nỗi đau càng lớn hơn khi được kể lại, nhưng sự vô tình ấy lại làm ta nhận rõ về người liệt sĩ - người yêu của anh chiến sĩ:

Mấy năm cô ấy vào du kích
Không hiểu vì sao chẳng lấy chồng?

Mỗi lời kể như dao cứa vào tim, nhưng lạ thay lại làm ta thêm yêu mến, trân trọng người con gái sắt son anh dũng. Nỗi đau riêng hoà vào nỗi đau chung, ta hiểu thêm hơn về bản chất của tình yêu trong kháng chiến, với những con người bình thường mà cao cả đã vượt lên tình riêng, sẵn sàng cống hiến tất cả cho quê hương. Hình tượng người con gái Núi Đôi còn để lại suy ngẫm sâu sắc về sự hy sinh. Đó không phải là mất mát bình thường mà có khả năng biến đau thương thành sức mạnh. Bóng hình người con gái hoà vào bóng hình quê hương, thúc giục tâm tư của người còn sống, thành ý chi và quyết tâm vượt lên bất hạnh, hồi sinh sự sống. Với ý nghĩa đó, cô gái núi Đôi đã thành biểu tượng bất tử:

Cha mẹ dìu nhau về nhận đất
Tóc bạc thương từ mỗi gốc cau
Nứa gianh nửa mái lều che tạm
Sương nắng khuây dần chuyện xót đau

Tình yêu bị kẻ thù hủy hoại nhưng không hề suy xuyển, mà hoà thành tình yêu lớn lao với quê hương, xóm làng, cha mẹ…Quê hương hồi sinh, đau xót nguôi ngoai nhưng không đem đến với con người sự quên lãng mà đã nhân lên thành tình cảm cách mạng, thành lời thề thiêng liêng trước Núi Đôi:

Nhưng núi còn kia, anh vẫn nhớ
Oán thù còn đó, anh còn đây
Và: Nhớ nhau anh gọi: em, đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng


Nhân vật trữ tình trong bài thơ đã hoá thân vào “vạn tấm lòng”, tình cảm nâng tầm thành tình cảm cách mạng. Tác giả không hề mô tả nước mắt trước bi kịch mà hình dung ra cuộc chiến đấu của người chiến sĩ lấp lánh ánh sáng bất tử của người con gái núi Đôi – sao trên mũ  sao sáng dẫn đường, em  hoa trên đỉnh núi thơm mãi bốn mùa. Làn hương ấy, vẻ đẹp ấy còn kết đọng mãi trong lòng người, nhắc mãi vẻ đẹp kết tinh từ những ngày chống thực dân Pháp hào hùng để làm nên sức mạnh chiến đấu chống đế quốc Mỹ, hướng về tương lai toàn thắng của quê hương./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét